Tuesday, June 01, 2010

May's note: I have a dream...!

















"One sees clearly only with the heart
Anything essential is invisible to the eyes" ~ Saint Exupery.

1. A life explorer

This month, May, has my special day, my birthday.

Even though i hide my birthday, but my friends still remember my day, just because it's... easy to remember. It's a happy moment to receive lots of warm greetings from some of my best friends, some online friends who i've never met in person but they've read my notes about Internet VN, some foreigners i've had chances to make friend while traveling abroad... so sweet...

Many years ago, thirty two years ago ( oh I’m getting old now :) ), a child was born in Hanoi, but now he's living in Saigon.

He did not remember much about his babyhood, since he moved to the South when he was 3, except for a little memory from his mom’s words about his third years old. That was when a car lighted to his house, he said that “oh, that car is making flowers on our house’s wall”.

That’s a little boy, now he is growing up and become a normal guy who consider himself a guy of passion, or a life explorer as well.

Now he is living his life, a life is driven not by money, not by power, and even not by fame. But it is driven by what he believes in, what he’s fascinating about.

His life is to make him happier every day, to make his family feel better every month, to make his reality come closer to the dream goal every year . He should be patient and wait for, happy for whatever fate brings to him. He should try for more and ask for less. Shouldn’t he?

2. Dreaming guy

Oh, so what he’s dreaming about? Too many!

Travelling around the world? He’ve been doing it sessionly since fours years ago, with at least 02 “quota” countries a year. He loves to discover cultural differences between different places, different nations. It's really interesting to talk with local persons in various "tribe" about their life, their behaviors and customs...

Capturing every gorgeous moment of life? Now even when he left behind his big camera and all complex equipments, he can still take photos with his "small but cute" camera and a stream of photography in his blood.

Building powerful Internet dotcoms? It’s a long journey started for more than 10 years since he had this concept in his mind. Now it is not only his passion but also his love at heart. After enjoying his adventures in different field of careers from IT, PR to photography..., he now can entirely focus 120% to the Internet industry, to the online world at least next 8 years.

Freedom life? He learns that people can live for dreams but they can not live by dreams...


3. Freedom life

... Of course the driver on the road to achieve freedom life can not drive any mean, go any direction. He just goes on specific paths he feel comfortable with and they don't bother his freedom mind.

It's a big plan to set up his goal: retire at 40 years old. That means at that time he will have freedom in finance, then from that base, he can own a more freedom life. That means he doesn't need to work fulltiem and can travels around the world with his special sweetheart.

Then, he can become an angel investor in Internet start-ups, continue to support other young guys' visions, or even contribute his effort to improve and promote Vietnam's hospitality to the world..

Such is life! Similarly, making dreams come true likes planting a seed and growing it up gradually hour by hour, day by day... No matter what the weather is, rainy or sunny, windy or stormy…

http://www.facebook.com/note.php?note_id=396288514226

Wednesday, March 17, 2010

Startup Vietnam: Nhìn sang Trung Quốc!

Thị trường Internet Trung Quốc



Nhìn vào danh sách 30 cty Internet lớn nhất TQ , trừ 3 cty viễn thông ra, chúng ta có thể thấy 5 vị trí hàng đầu là

1. Tencent - Internet & mobile VAS
2. Alibaba - B2B Trade & Online Retail
3. Baidu - Search engine
4. Netease - Web Portal & Online Gaming
5. Ctrip - Travelling site


Có thể thấy các nhóm cty chiếm ưu thế (có nhiều cty cùng tồn tại trên một lĩnh vực) là

1. Web portal + online gaming: Tencent số 1, Netease số 4, Sohu 7, Sina 11
2. Online gaming: Shanda 6, Changyou 8, Perfect World 9, Giant Interactive 10, Kingsoft 14, NetDragon 16, The9 21
3. Online education: China Distance Education 13, China Cast Education 21, China EduCorp 25
4. Software: Kingsoft 14, CDC 19, Giga Media 20, Linktone 26
5. Wireles Service: Tencent 1, Kong Zhong 15, Hurray 27

Ngoài ra có vài lĩnh vực chỉ có duy nhất một công ty thống trị như B2B với Alibaba số 2, search engine với Baidu 3, du lịch với Ctrip 5 (thứ 2 là eLong chỉ = 1/20 Ctrip). Kế đến là Internet Ad với Focus Media 12, online jobs với 51job.com 17, đấu giá với Taobao (Alibaba Group) & Tom (Tom Group) 18, thông tin tài chính với China Finance Online 23.

Tương quan ở Việt Nam

Ngữ cảnh của phần này tôi viết theo thuyết tương tự của bài viết trước đây "Học Mỹ hay học TQ?"

Nhóm 1,2 - Web portal + online gaming

Dĩ nhiên ai cũng thấy tương tự Tencent là Vinagame, FPT, VTC. Còn VCCorp, nếu một ngày nào đó họ tích hợp tất cả các site con vào một chỗ thì họ cũng thành một web portal hàng khủng. Ngoài ra có một số site game mini như trochoiviet, socvui, ken.vn...

Nhóm 3: Online education

Có vài công ty đang hoạt động trong lĩnh vực này như truongtructuyen.vn, vietnamlearning.vn, hocmai.vn, hoctructuyen.org
Nhóm này tôi không có thông tin.

Nhóm 4 - Software

Đứng đầu nhóm này là Kingsoft vừa làm phần mềm vừa làm game. Ở VN tương tự có GlassEggs chuyên gia công game, họ cũng đang phát triển một game riêng cho thị trường VN. Ngoài ra cty phần mềm tiềm năng nhất VN bây giờ có lẽ là BKIS, rồi FSoft, các cty phần mềm khác như Misa, Lacviet.

Nhóm 5 - Wireless

Nhóm này TQ trừ Tencent ra có Kong Zhong 428 triệu USD, Hurrray 77 triệu USD. Theo cách tính tương đối từ bài "Học Mỹ hay học TQ" thì ở VN nếu có cty mobile giá trị sẽ chỉ bằng 1/100 hai cty trên: từ 0.77 triệu - 4.28 triệu USD. Thật ra chưa có mấy cty lộ diện trong lĩnh vực này. Có thể nhắc đến MSS làm platform service có founder vốn là cựu Phó tổng toàn cầu của T-mobile. Hay Visky cũng toàn tâm toàn ý cho mobile.

Kế đến xét các lĩnh vực chỉ có 1,2 cty.

Đầu tiên là B2B. Ở VN có vài cty như vietnamb2b (IDG), gophatdat (DFJV). Các cty này có vẻ vẫn chưa có gì tiến triển vì thị trường VN quá bé so với TQ. Alibaba có lợi thế TQ là công xưởng xuất khẩu lớn nhất thế giới. Đây cũng là tiền đề để họ thành site B2B lớn nhất thế giới, một hệ quả global riêng Alibaba có. Còn các dotcom lớn khác của TQ như Tencent, Baidu vật vã mãi không ra global được.

Kế tiếp là search engine, như đã xét các loại "bẫy" trong "Học Mỹ hay học TQ", ở VN có lẽ cũng không có hy vọng cho search engine Viet lên ngôi vì các yếu tố: độ lớn thị trường, ngôn ngữ, văn hóa mở.

Thứ 3 là mảng du lịch. TQ có Ctrip đứng thứ 5 với giá trị thị trường lên đến 3.4 tỉ USD. Như vậy VN có thể sẽ có cty online travel trị giá từ 34 - 68 triệu USD. Mảng này chỉ có vài site trong đó có Skydoor, và một số site của các cty du lịch lớn như Viettravel, SaigonTourist, Apex... Mảng du lịch nếu thu tiền từ quảng cáo thì quá bé. Nếu đi theo hướng booking online (hotel, ticket, tour) ... thì phải dính tới offline và chuyên môn sâu về ngành du lịch. Vì thế nên hầu như các cty Internet lớn của VN đều "né" không nhảy vào mảng "xương xẩu" này. Ngoài ra online booking cũng đụng vấn đề thanh toán/thói quen người dùng nên chừng nào ecommerce phát triển thì online travel sẽ hưởng lợi phía sau.

Nhóm sau là đấu giá - ecommerce: TQ có tom.com, taobao.com ebay.cn (mua lại eachnet). VN có chodientu, vatgia, 5giay... Vatgia có vẻ đang tiến triển rất tốt. Họ có IDG và một quỹ đầu tư nữa của Nhật đổ vốn vào, tập trung chiến lược offline với đội sales khoảng 100 người. Doanh thu vatgia nghe nói khoảng vài trăm ngàn USD/ tháng, không biết chính xác.

Tiếp nữa là online ad, ở VN đang có vài cty đang cạnh tranh nhau và cũng chưa rõ tương lai thế nào: Vietad.vn (Moore, PeaceSoft), AdMicro (VCCorp)... Có vẻ AdMicro có nhiều lợi thế hơn với hàng loạt site con của VCCorp.

Online job ở VN đã hình thành khá rõ các vai vế với Vietnamworks, Kiemviec, ... thị trường này có lẽ ít biến động.

Tiếp đến là mảng thông tin tài chính. TQ chỉ có một cty loại này trong top 30. VN đang có cafef, stox, vietstock, sanotc. Tiềm năng nhất hẳn là CafeF.

Rồi các công cụ thanh toán. Ở TQ không thấy một cty riêng nào chuyên về online payment. Điều này có thể do chỉ những cty đã có một lượng khách hàng lớn mới có thể phát triển công cụ thanh toán thành công, hoặc đa số các công cụ thanh toán tới một lúc nào đó cũng phải "bán mình" cho một cty lớn thì mới tồn tại được. Tại VN, các liên doanh ngân hàng như VNBC, Banknet, Smartlink đang phát triển mạnh chủ yếu mảng thẻ, phần online payment họ chưa tập trung lắm vì tỉ trọng rất bé so với offline (nếu lý tưởng chỉ được 5-7%). Ở mảng này hy vọng liên minh VNBC với hơn 4 triệu thẻ và những người đứng đầu trẻ tuổi, am hiểu Internet sẽ là động lực thúc đẩy thị trường. VNBC có chủ tịch là bạn khá trẻ sn 79, PTGD NH Đông Á, người phụ trách kĩ thuật chính người giải nhất TTVN 2007.

Như vậy các công ty VN không thuộc nhóm nào ở trên thì sao? Tôi không biết, không có khuôn mẫu nào đúng hoàn toàn cả, mọi thứ đều là tương đối.

http://www.facebook.com/note.php?note_id=370946314226

Bài liên quan: "Startup VietnamHọc Mỹ hay học TQ?"

Tuesday, February 23, 2010

Startup Vietnam – To hơn, nhỏ đi!

Trên thế giới, từ trước giờ các công ty trong lĩnh vực công nghệ và Internet đều có thể chia theo một số loại như phần cứng, phần mềm, Internet, sản xuất điện thoại, mạng điện thoại, nội dung số.

Ngoài ra về khía cạnh sản phẩm thì các tập đoàn châu Á đa số đều đi theo hướng đa dạng hóa như Sony, Samsung, LG.... Các tập đoàn Âu, Mỹ hầu như đi theo hướng chuyên môn hóa như Nokia, Dell, Google…

Thỉnh thoảng chỉ thấy ngoại lệ như Microsoft nhảy vào lĩnh vực phần cứng với Xbox, Zune nhưng không thành công mấy. Độc đáo nhất chỉ có Apple có thể chiến thắng trên hầu hết các mặt trận mà họ tham gia với máy Mac, iPod, iPhone, iTunes, AppStore…



Thế nhưng với hàng loạt động thái một vài năm gần đây của các tập đoàn lớn cả Âu lẫn Á và ngay ở VN cho thấy không có hàng rào nào ngăn cản họ tiến sang những sân chơi khác. Kẻ đang ở dưới biển thì lên rừng, kẻ ở rừng thì… bay lên trời.

· Google với Android/Voice/Nexus One, Amazon với Kindle
· Nokia với Ovi/ Tablet 3G, Samsung với Bada
· Dell, Asus, Acer, FPT cũng sản xuất điện thoại.
· Viettel sản xuất máy tính, điện thoại di động, tham gia Internet, ứng dụng mobile…

Sắp tới ai biết được điều gì sẽ xảy ra??? Biết đâu Apple lại tung ra một mạng xã hội mới dạng love-matching dành riêng cho những người dùng Mac + iPhone + iPad vốn là những người có điểm chung “cá tính, đam mê, thu nhập cao”? Hay Facebook buồn tình tung ra một hệ điều hành web FaceOS, hoặc một FacePad gì đó chỉ dùng cho các hoạt động của các user trên Facebook platform? Ở VN thì Viettel có vẻ không ngần ngại khi tham gia bất cứ mảng nào họ thấy có lợi nhuận.

Những hoạt động này cho thấy các công ty chuyển từ việc tận dụng các lợi thế chiều dọc/ chuyên sâu một loại sản phẩm/công nghệ sang lợi thế chiều ngang/quy trình - tham gia vào tất cả các bước liên quan trong hoạt động hàng ngày của người sử dụng mà không cần biết đó là cứng, mềm hay mạng… Miễn là họ có đủ nguồn lực: tiền, nhân sự và họ biết sẽ có một lượng lớn khách hàng cũ sẽ sử dụng sản phẩm mới của họ.

Những điều trên có vẻ vĩ mô và chung chung quá, vậy chúng có ảnh hưởng gì đến Internet VN và những người đang làm việc trong lĩnh vực CNTT & Internet?

Với ngành Internet Việt Nam

+ Tiền vào nhiều hơn
Tổng doanh thu của ngành công nghiệp nội dung số VN năm 2008 là 170 triệu USD, khoảng 3.200 tỉ. Trong khi đó chỉ cần Viettel tung 30% lợi nhuận của 10.000 tỉ vào đã khiến số tiền trên tăng gấp đôi. Và ai biết Mobifone, Vinaphone, Beeline… sẽ không tiếp bước Viettel?

Từ đó một số công ty con/startup lại có lợi khi làm sub-contract/partner hay M&A cho các đại gia mới gia nhập ngành muốn mua thời gian. Rồi một số công ty mobile apps/ marketing/content lại ra đời thúc đẩy tăng trưởng của mảng này.

+ Cạnh tranh khốc liệt hơn
Dĩ nhiên đi đôi với tiền là vũ khí. Các công ty phải cạnh tranh nhau khốc liệt hơn nhiều. Viettel chưa cần phô diễn các thế mạnh về người dùng, hệ thống phân phối… mà chỉ vác bọc tiền ra là đủ “lấy tiền đè người” rồi.

Tiếp theo trước đây các đối thủ dùng cùng loại vũ khí để đánh nhau trên một sàn đấu, thì giờ đây không còn luật lệ đó nữa. Ai có súng dùng súng, ai có dao dùng dao, ai có … đủ thứ thì lôi ra chơi luôn một lần. Rõ ràng ai có nhiều “hàng” hơn có xác suất “tấn công” nhiều user hơn, ít nhất là so với bản thân họ lúc trước.

Với nhân sự Internet Việt Nam

+ Có nhiều việc làm hơn
Nếu trước đây lập trình viên, những người làm nội dung số… chỉ có thể vào ra các công ty Internet là chính, giờ đây họ có thể ứng tuyển vào mạng di động, vào các công ty sản xuất điện thoại (nội dung số).

+ Mặt bằng lương cao hơn, luân chuyển nhiều hơn
Lượng công việc nhiều hơn, tiền vào nhiều hơn, mà số người có thể tham gia làm việc ngay không thay đổi mấy, vậy chuyện gì sẽ xảy ra?

Với người dùng cuối

+ Nhiều hơn, tiện hơn, rẻ hơn
Trước đây họ lướt web bằng máy tính, giờ có thể lướt mobile web hoặc tablet, iPad. Trước đây phải xài ADSL thì giờ vô tư không cần dây với 3G. Trước đây sms phải nhắn tin tốn tiền, giờ dùng ViTalk hoặc Ola… hay vào Dailyinfo của Viettel để có 5 tin free mỗi ngày. Quá sướng!

Với các công ty thông thường

+ Tiếp cận khách hàng trên nhiều kênh hơn
Nếu trước đây họ chỉ có mỗi kênh Internet thì giờ đây họ có thể chọn thêm mobile. Như vậy có thêm sự lựa chọn rất hấp dẫn này, nhiều khả năng các công ty sẽ tăng tỉ trọng chi cho tiếp thị số. Nhờ vậy dòng tiền lại tiếp tục chạy vào ngành như phần trên đã nói.


Cuối cùng, có vẻ Internet VN đang bắt đầu tăng tốc lớn lên. Biên giới giữa các mảng Internet, di động, phần cứng, phần mềm …đã bị xóa bỏ. Thế giới đang thu hẹp lại, nhỏ đi!

http://www.facebook.com/note.php?note_id=321465094226

Bài kỳ trước: Startup Vietnam: 7 yếu tố của một hệ thống bền vững

Bài liên quan: 7 dự đoán về Internet Việt Nam 2010

Thursday, February 04, 2010

Startup Vietnam: 7 yếu tố của một hệ thống bền vững

Nếu bạn đọc các bài blog của các guru như Paul Graham, Don Dodge hay các bài báo về thành công của các dotcom ở Mỹ, về kinh nghiệm khởi nghiệp người ta không nói nhiều đến một hệ thống tốt, vì ở Mỹ mọi thứ đã phân cấp rất chuyên nghiệp. Bạn chỉ cần có team tốt, một sản phẩm cực kỳ thu hút, sau đó chắc chắn sẽ tìm được nhân sự chuyên môn cho các khâu sau và tự động sẽ có rất nhiều cách để biến sản phẩm thành thương mại hóa. Điều này dễ dẫn đến lầm tưởng của rất nhiều startup ở VN (kể cả chúng tôi) là chỉ cần có một sản phẩm tốt là sẽ thành công.

Ở VN không dễ dàng như vậy, cơ sở hạ tầng thiếu thốn, ngành mới nên chưa có nhiều nhân sự chuyên môn cao, chưa có công cụ thanh toán “chuẩn” …vì thế nghĩ đến một hệ thống tốt rất quan trọng khi chuẩn bị phát triển một sản phẩm online hay ứng dụng mobile mới nào đó, dù là là sản phẩm của startup hay công ty lớn. Người cha giàu trong “Rich Dad, Poor Dad” nói “Một hệ thống tốt mới là mấu chốt thành công chứ không phải một sản phẩm tốt” .Tôi bắt đầu đi tìm các yếu tố cốt lõi của một hệ thống như vậy.




1. Dream Team

Ngoài các khía cạnh tôi đã phân tích trong bài Dream Team, ở đây bổ sung thêm phần comment trên LinkHay của anh TanNg, TMT, và KingEric về bài trên.

TanNg: “Đọc bài này 1-2 lần thấy thiếu cái gì đó. Nghĩ đi nghĩ lại thấy nó nhiều kỹ năng, nhưng lại ko thấy passion và dream. Tạm bổ sung thêm 1 người là người dám mơ, người dám change, người dám take challenge.”

TMT: “Nhà quản trị dotcom có thể nói chính là CEO, người có tầm nhìn bao quát và định hướng đi cho Dream team, đồng thời cũng phải biết gắn kết các người tài giỏi lại để làm việc cùng nhau (@KingEric), người định hướng cũng chính là người dám mơ, dám challenge (@TanNg).”

Đồng thời Dream Team này cũng phải có khả năng tạo ra những cú Buzz chiến lược táo bạo để tạo thời thế và nâng tầm đẳng cấp như HAGL trong lĩnh vực bóng đá. HAGL từng mời Kiatisak về VN thi đấu, phát triển Học viện bóng đá HAGL – Arsernal, tài trợ SEAGames 2009 ở Lào… Và cũng không thể không nhắc đến Viettel với những bước tiến thần tốc cả trong và ngoài nước gần đây. Chỉ trong 5 năm họ làm được những điều mà Mobifone, Vinaphone trước đó vốn có rất nhiều lợi thế nhưng vẫn không thực hiện được.


2. Sản phẩm/Công nghệ chủ lực

Không thể phủ nhận sản phẩm luôn là trung tâm của dotcom. Trong bài “8 đặc điểm của một sản phẩm ‘hoàn hảo’” nhấn mạnh một sản phẩm tốt phải có một công nghệ lõi kiểu PageRank search của Google, đồng thời phải có một sự liên kết chặt chẽ các sản phẩm con trên một trục chính để tạo thành một hệ thống thống nhất. Việc tích hợp các sản phẩm lại giúp tạo ra một sức mạnh tổng lực thừa kế lẫn nhau, tập trung và dễ quản lý hơn, cũng như tốn ít chi phí phát triển và tiếp thị hơn.

Tích hợp các sản phẩm theo một trục xuyên suốt cũng là định hướng mà chiến lược “Go Mass” của FPT nhắm tới trong hành trình Vì công dân điện tử với việc liên kết không chỉ các sản phẩm con mà còn các công ty con như FPT Online, Visky, ngân hàng Tiên Phong, FPTS, F-Mobile...trên một chiếc mobile nhỏ bé.

VCCorp là một trường hợp ngoại lệ khi họ là chuyên gia thị trường ngách. VCCorp có rất nhiều sản phẩm với mục tiêu trở thành số 1 trong các lĩnh vực “béo bở” khác nhau. Và họ đã thành công khi hầu hết các sản phẩm đều đạt được vị trí số 1 hoặc ít nhất là số 2 như: Dân Trí, CafeF, Kenh14, Socvui, GameK, AutoPro,... Sau một hồi nghĩ mãi, tôi đoán sự liên kết chính giữa các sản phẩm của VCCorp là… công nghệ quảng cáo trực tuyến Admicro??! Giai đoạn này hầu hết các sản phẩm của VCCorp có nguồn thu chính đến từ quảng cáo. Xem “Hệ thống bán hàng của Admicro” tại đây.


3. Mô hình kinh doanh

Đây là điều khó có thể nói rõ ràng, và chả ai định nghĩa được, tôi lại càng không biết, chỉ có thể tự mô tả theo suy nghĩ chủ quan của tôi.

Đầu tiên một mô hình kinh doanh tốt sẽ học hỏi được các điểm mạnh của các “proven model” những nền văn hóa tương tự. Trong năm đầu tiên, VNG đã đem cả team 10 người sang TQ để học hỏi cách thức phát hành game. So sánh danh sách 30 công ty Internet hàng đầu TQ và danh sách 500 công ty lớn nhất TQ với 2 danh sách tương tự của VN đều thấy có sự giống nhau ở các top đầu là các lĩnh vực chung như game online, viễn thông, bất động sản, dầu khí, xây dựng… Trong khi nếu xem các danh sách tương tự của Mỹ, Nhật thì khác hẳn. Dấu ấn hơn 1000 năm chung sống với anh bạn láng giềng khổng lồ “núi liền núi, sông liền sông, chung một Biển Đông” dù tốt hay xấu cũng khó phai. Dĩ nhiên mô hình kinh doanh này cũng phải hợp với văn hóa của VN.

Kế đến mô hình kinh doanh tốt sẽ có các yếu tố trong quy trình “Đầu tư -> sản phẩm/dịch vụ -> phân phối -> doanh số -> lợi nhuận -> tái đầu tư” khá rõ ràng và có thể dự đoán được phần nào. Dĩ nhiên có những trường hợp không có gì rõ ràng từ đầu như mô hình search/quảng cáo của Google, nhưng đó là những đột phá hiếm hoi mà rất hiếm công ty nào làm được.

Sau đó, một mô hình kinh doanh mạnh ở VN giai đoạn sắp tới phải kết hợp hài hòa được sức mạnh và giảm thiểu được điểm yếu từng yếu tố trong hệ Internet – Mobile – Offline (IMO) để tạo thành một hệ thống liên kết bền vững. Với IMO tại VN, Internet tuy chưa chứng tỏ được khả năng thương mại hóa trên diện rộng nhưng vẫn là một kênh tương tác chính không thể bỏ qua, các ứng dụng trên mobile sẽ bùng nổ với hơn 70 triệu thuê bao, Offline là sợi dây quan trọng kết nối giữa thế giới thực và thế giới ảo.


4. Hệ thống phân phối/thanh toán

Hệ thống phân phối tốt giúp các công ty đến gần với khách hàng hơn cả về mặt vật lý và luận lý. Tầm quan trọng của hệ thống phân phối với thành công của hầu hết các công ty B2C là không thể phủ nhận. Thành công đột phá của của Dell từ một công ty nhỏ thành một tập đoàn ngang hàng những đại gia như HP, Compaq, IBM… từng đến từ việc đổi mới mô hình phân phối truyền thống thành phân phối trực tiếp “Direct Dell”.

Trên Internet thì mô hình affliate về bản chất là một cách thức mở rộng hệ thống phân phối online. Những site nào chứa các đường link bán sách, ảnh, banner quảng cáo… dẫn đến site mẹ sẽ được chia hoa hồng khi có transaction/pagview xảy ra. Adsense là một thành công đỉnh cao của mô hình này khi vô số blogger trên thế giới sử dụng để kiếm tiền. Google Site Search, Custom Search nhìn từ góc độ kinh doanh cũng là các hình thức khác nhau của Google để tăng cường số lượng đại lý phân phối “sản phẩm search” của họ.

Bên TQ, thử xem David Wei, CEO Alibaba.com nói gì “I don’t believe it is possible to go into India with a 100 per cent online platform today”. David nói trong ngữ cảnh Ấn Độ là một nước có “Internet penetration” thấp, và offline operation approach cũng là một chiến thuật quan trọng của Alibaba tại TQ. Ngoài những điểm tương tự TQ, đặc biệt khi mà ở VN tư duy “vật thể” vẫn phổ biến hơn tư duy “phi vật thể” thì hệ thống phân phối offline tạo ra một cảm giác trực quan và “vật thể” hơn cho người dùng, giúp người dùng dễ quyết định hơn khi phải bỏ tiền ra mua một sản phẩm ảo.

Trong các trường hợp trên, hệ thống phân phối dùng để bán hàng, còn ở TQ & VN hệ thống phân phối có thể kiêm nhiệm luôn vai trò kênh thanh toán. Hãy xem các cty trong lĩnh vực viễn thông như Mobifone, Viettel…không phải ngẫu nhiên mà họ có thể thu về được doanh thu hàng chục ngàn tỉ. Có vô số các cửa hàng điện thoại sẵn sàng bán card điện thoại cho người dùng suốt ngày đêm ở khắp mọi nơi. Một trong những lợi thế cạnh tranh lớn của VNG là hệ thống đại lý bán thẻ game là 15.000 tiệm net nơi 90% game thủ chơi. Không thể tưởng tượng được cách đây mấy năm VNG thu tiền bằng cách nào nếu không có hệ thống phân phối offline này. Nếu thu tiền qua SMS thì hơn 50% lợi nhuận của VNG sẽ rơi vào các mạng di động. Với BKAV, một nhà quản lý của đơn vị này từng nói thành công của BKAV đến hệ thống phân phối mạnh của họ (333 đại lý) chứ không chỉ là sản phẩm.

Hệ thống phân phối online hay offline tốt cũng là một rào cản “entry barrier” đối với các đối thủ cạnh tranh muốn gia nhập thị trường.


5. Quản lý quan hệ khách hàng (CRM)



CRM là một vấn đề cực kì quan trọng với hầu hết các công ty bán lẻ. Hệ thống CRM của Walmart hẳn là cực kì phức tạp. Mua hàng ở Metro luôn phải dùng thẻ. Ngay cả siêu thị của VN như Coopmart cũng rất quan tâm đến CRM. Trên Internet dù thu tiền từ user hay từ công ty thì vẫn phải thu hút user tương tự bán lẻ nên không thể bỏ qua CRM.

Một hệ thống CRM tốt giúp hiểu rõ khách hàng hơn, nắm rõ các thông tin cá nhân – nhân khẩu học và thói quen sử dụng sản phẩm của họ, biết được họ quan tâm hay không quan tâm gì. Đồng thời hệ thống CRM sẽ tiếp nhận những phản hồi của khách hàng và xử lý các vấn đề phát sinh. CRM cũng giúp xây dựng và bảo vệ lòng trung thành của người dùng với sản phẩm. CRM cũng giúp việc cá nhân hóa sản phẩm dễ dàng hơn.

Hệ thống CRM hiệu quả giúp bán hàng nhiều hơn, tiếp thị tốt hơn, và giảm thiểu tối đa chi phí tiếp thị do tận dụng tiếp thị truyền miệng từ những khách hàng trung thành cũng như giảm chi phí cải tiến sản phẩm hoặc chi phí phát triển tính năng mới/sản phẩm mới hoặc do biết được nhu cầu nào người dùng thật sự quan tâm.

Một yếu tố quan trọng trong CRM là Customer Support Service (CSS). Tương tự như hệ thống phân phối, CSS ở VN không thể bỏ qua các thành tố offline như call center (trả lời qua điện thoại) hay người hỗ trợ trực tiếp. Ngay cả Google còn phân phối không thành công Nexus One khi phát hành lần đầu một phần do hệ thống CSS không có hotline. Rất nhiều khách hàng mua điện thoại Nexus không thể chờ đợi trả lời thắc mắc trong vòng 1 ngày qua … email, họ muốn câu trả lời tức thời. Dĩ nhiên sau đó họ sẽ không recommend cho bạn bè mua tiếp. CSS tốt còn giúp giảm thiểu tối đa các khủng hoảng thương hiệu do công ty biết và giải quyết các phàn nàn của người dùng nhanh chóng trước khi họ tự lan truyền ra.

Có những hình thức CRM đơn giản như newsletter, lưu lại hành vi của user chi phí thấp, dễ thực hiện mà không kém phần hiệu quả. Chẳng hạn ban đầu việc sử dụng Google Search không liên quan đến account. Sau đó Google nhốt hết user vào account dùng chung cho mọi sản phẩm của họ và tận dụng tối đa các thông tin user behavior để tiếp tục cải tiến search engine vốn đã quá tốt. Một ví dụ khác là phần mềm quản lý phòng máy miễn phí CSM của VNG vốn được hầu hết các tiệm nét sử dụng là một phần của CRM. Đây cũng là một lợi thế cạnh tranh của VNG so với các công ty game online khác.

Trên thế giới cũng như ở VN, chỉ riêng phần mềm CRM là cả một lĩnh vực hấp dẫn. Salesforce.com, công ty hàng đầu trong lĩnh vực này có giá trị 8,24 tỉ USD.


6. Thương hiệu

Thương hiệu tốt giúp công ty giữ chân khách hàng cũ, dễ thu hút khách hàng mới và lôi cuốn sự ủng hộ của nhiều đối tượng quan trọng khác như developer, nhân viên, đối tác, cổ đông, nhà nước… Thương hiệu mạnh còn giúp công ty giảm chi phí quảng bá mỗi khi muốn mở rộng hoạt động sang một lĩnh vực mới.

Khác với các công ty truyền thống thường dùng quảng cáo marketing để xây dựng thương hiệu, người dùng cảm nhận hình ảnh thương hiệu các công ty công nghệ từ bản chất và hoạt động của công ty đó hơn là từ các thông điệp quảng cáo. Nghĩ đến Microsoft là nghĩ đến một công ty giàu có, thương mại và hầu như muốn dùng sản phẩm nào cũng phải bỏ tiền mua. Trong khi nghĩ đến Google là nghĩ đến một công ty công nghệ lớn, sáng tạo, thân thiện, hữu ích cho mọi người và cộng đồng. Apple lại tạo ra một hình ảnh sáng tạo và khác biệt, công nghệ cao, sành điệu.

Với sản phẩm, dù có rất nhiều hình thức quảng cáo tiếp thị, nhưng trong lĩnh vực công nghệ thì kênh tiếp thị quan trọng nhất đồng thời tốn ít chi phí nhất vẫn là “word of mouth” – truyền miệng. Có khá nhiều công ty VN bỏ tiền tiếp thị rất hoành tráng nhưng không thu được kết quả như mong đợi, vì sản phẩm được tiếp thị không có giá trị tốt.

Phương thức truyền miệng hoạt động khi sản phẩm thực sự tạo ra giá trị hữu ích cho người dùng từ đó hình thành một cộng đồng những người dùng trung thành với sản phẩm. Dĩ nhiên phải có CRM tốt mới tận dụng được những người dùng trung thành. Chính cộng đồng ban đầu này sẽ là “hạt nhân” để lan truyền giới thiệu sản phẩm rộng và nhanh theo kiểu “vết dầu loang”. Tùy vào chiến lược tiếp thị và một số yếu tố tự nhiên lúc đầu mà “hạt nhân” này có thể là giới sinh viên trường top (Harvard -> Ivy League -> các trường ĐH khác) như trường hợp Facebook, cộng đồng developer như Google, Firefox. Sau này mỗi lần ra sản phẩm mới Google, Firefox tiếp tục dùng lại chiến thuật “developer seeding” này.

Gần đây các công ty VN bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu hơn: FPT bổ nhiệm Lê Trung Thành – một chuyên gia marketing hàng đầu làm PTGĐ Thương hiệu, VinaGame đổi tên thành VNG để tránh chữ Game và tiến vào một thị trường “mass” thay vì chỉ tập trung vào giới teen.


7. Mô hình tổ chức


Mô hình tổ chức sẽ ảnh hưởng đến sự sáng tạo - innovation, tốc độ phát triển và thậm chí cả hình ảnh thương hiệu của tổ chức đó. Công ty hiện có mô hình tổ chức được xem là tốt nhất hiện nay là Google.

Mô hình nhóm dự án 5-7 người và 80-20 của Google giúp giải quyết 2 vấn đề lớn thường gặp của tập đoàn lớn là tốc độ phát triển chậm lại vì bộ máy cồng kềnh, và vấn đề corporate hóa/entrepreneur hóa. Chắc là Google mô phỏng lại mô hình trường ĐH (Stanford), nơi sinh viên làm việc theo nhiều group nhỏ, và mỗi group thực hiện luận văn là một đề tài (sản phẩm) khác nhau. Văn hóa của Stanford cũng chú trọng vào Innovation.

Về corporate hóa/entrepreneur hóa, khi một công ty startup phát triển từ nhỏ thành to, nó bắt đầu phải thu hút nhân sự từ các tập đoàn lớn đã có sẵn để giải quyết vấn đề kinh nghiệm quản lý. Đó là vấn đề của công ty. Còn với nhân sự kinh nghiệm trong công ty lớn, vấn đề của họ là muốn tách ra đi tìm con đường riêng của mình. Mô hình 80-20 giúp nhân viên ở lại công ty nhưng vẫn có thể phát huy tính sáng tạo theo cách của mình.

Ngay cả nhân sự thông thường cũng có thể chia thành 2 loại người, entrepreneur và corporater. Entrepreneur thường có óc sáng tạo cao, mạnh ở giai đoạn nắm bắt cơ hội, khởi đầu, phát triển đi lên nhưng sẽ không dễ dàng làm việc khi quy mô trở nên khá lớn. Ở VN có vẻ môi trường xã hội không khuyến khích hay tạo điều kiện cho entrepreneur cho lắm. Corporater có thế mạnh quản lý một hệ thống lớn trên diện rộng, nhưng sẽ gặp khó khăn khi làm việc trong một điều kiện thiếu thốn nguồn lực như startup. Cũng có những người có năng khiếu cả hai và có thể thích nghi theo điều kiện môi trường. Công ty nào có thể tận dụng khả năng của cả hai loại người này sẽ giải quyết được 2 vấn đề đã nói ở trên: sáng tạo và tốc độ phát triển.

Tôi nhớ Rupert Murdoch – ông chủ tập đoàn truyền thông News Corp sở hữu MySpace, Avatar… có nói “"The world is changing very fast. Big will not beat small anymore. It will be the fast beating the slow."” Chắc cũng nên lắng nghe Murdoch chút ít nhỉ?!

***
Bài kỳ trước: Startup Vietnam8 đặc điểm của một sản phẩm “hoàn hảo”.
Bài kế tiếp: ???

Tuesday, February 02, 2010

Startup Vietnam: 8 đặc điểm của một sản phẩm “hoàn hảo” – phần 2

Phần 1

"keep speed in mind"

5. Tương tác cao

Một trong những đặc trưng không thể bỏ qua của Internet là tương tác. Nhất là trong thời buổi ai cũng bận rộn thiếu thời gian để tương tác offline thì mọi người càng dành nhiều thời gian cho tương tác online. Đồng thời một website càng có tính tương tác cao thì càng sống động và không cần phải tốn nhiều chi phí cho việc tiếp thị, tự người dùng sẽ trao đổi, giới thiệu lẫn nhau về website đó. Tính tương tác có thể xét trên các phương diện tương tác giữa người dùng với nhau, giữa người dùng với sản phẩm, và cao cấp hơn nữa là giữa developer với sản phẩm.

Một trong những thể loại sản phẩm có tính tương tác cao giữa người dùng với nhau là mạng xã hội mà cụ thể là Facebook. Trước đây ở VN Yahoo 360 đã từng “vang bóng một thời” khi đâu đâu cũng bàn tán về blog này, blog nọ. Thậm chí những hot blogger còn nhanh chóng trở thành “ngôi sao” nổi tiếng không kém gì các ca sĩ, diễn viên thời thượng. Đóng góp lớn vào thành công của Y360 là friendlist và comment/quick comment. Blogspot, Wordpress, Multiply… là những bloging platform rất tốt nhưng là mô hình conten-centric không chú trọng vào relationship – tính tương tác giữa các blogger nên không phổ biến ở VN như các mạng có đặc điểm này.

Tuy nhiên không nhất thiết cứ phải là mạng xã hội thì sản phẩm mới có tính tương tác cao. Tương tác cao giữa người dùng và sản phẩm có thể kể đến Digg.com hay linkhay.com. Một dạng tương tác giữa người dùng tạo ra nội dung của sản phẩm nữa là các thể loại wiki mà Wikipedia là người tiên phong. Google mới tung ra một sản phẩm theo kiểu này là Google Sidewiki (Chrome extension) cho phép comment vào bất cứ trang web nào. Ở VN sản phẩm theo trường phái này Baamboo Tra từ. Một dạng khác nữa cũng thuộc mục này là tương tác giữa sản phẩm và nội dung của người dùng, đó là Adsense.

Tính tương tác cao giữa sản phẩm với với developer, đại ý là developer có thể tham gia sử dụng lại sản phẩm cha (kết nối qua API) hay đóng góp tạo ra những sản phẩm con (apps) kí sinh trên sản phẩm cha, hay thậm chí viết lại mã nguồn. Đại diện của trường phái này tiêu biểu là Facebook, Google, hay OS là Linux, browser là Firefox, ở mobile là Android. Linux là sản phẩm gặt hái thành công đầu tiên. Facebook mở rộng khái niệm “open source” của Linux thành “open platform”. Google, Yahoo học Facebook tạo ra OpenSocial, BOSS nhưng hiệu quả chưa thấy rõ. Các dòng sản phẩm của Google càng về sau càng đi theo xu hướng platform như Web OS, Chrome, Android. Tuy nhiên phát triển sản phẩm theo hướng này không dễ, phải có cả điều kiện cần và đủ là hàm lượng chất xám về công nghệ rất cao và cộng đồng developer có thói quen phát triển phần mềm tự do. VN có Zing Me đi tiên phong trong thể loại này.

Người dùng hay developer, ai cũng muốn tham gia góp tiếng nói vào sản phẩm, vậy đừng quên sự có mặt của họ.


6. Nội dung là của người khác và có tính tự động hóa cao

Mục này có đôi chút trùng lặp với mục 5 – tương tác cao. Vì thông thường sản phẩm tương tác cao sẽ có xu hướng tạo ra nội dung. Khi người dùng tương tác cao với nhau hoặc với sản phẩm họ tạo ra user-created-content. Khi developer tương tác cao với sản phẩm, họ góp phần tạo ra sản phẩm giúp sản phẩm ngày càng được mở rộng với tốc độ và chất lượng mà không tự thân công ty hay team tạo ra sản phẩm nào có thể nào tự mình phát triển được. Những sản phẩm tiêu biểu là Wikipedia, Digg, Facebook, Napster.

Ở khía cạnh nội dung, trên thế giới có hai site nổi tiếng có cách thức ngược nhau là Amazon và Ebay. Nội dung của Ebay là hàng hóa mua bán qua lại của người dùng nên họ không phải lo phần này. Nội dung của Amazon là hàng hóa có thật sách vở, băng đĩa…, nên ban đầu họ phải tự mua, hoặc hợp tác để mua hàng từ đối tác khác nên phải huy động một lượng vốn rất lớn từ ban đầu. Hầu hết các công ty không thể làm như Amazon. VN có Vinabook theo mô hình Amazon. Một dòng sản phẩm nữa phát huy tiêu chí nội dung của người khác là peer to peer (Kazaa, eDonkey) – không hiểu tại sao ở VN không thấy ai làm sản phẩm loại này?

Ở khía cạnh tự động hóa có thể nhắc đến VnExpress. Ban đầu nội dung của VnExpress là copy từ các báo khác. Sau này tính thu hút của nội dung VnExpress là do chính đội ngũ phóng viên của họ tạo ra. Như vậy VnExpress sẽ không được điểm cao trong tiêu chí này do họ phải tự tạo ra nội dung. Với startup và những công ty nhỏ sẽ không thể nào học theo cách của VnExpress, vốn có FPT to đùng hỗ trợ đằng sau từ ban đầu. Một sản phẩm tin tức khác tận dụng ưu thế tiêu chí này là baomoi.com vốn không cần một đội ngũ hùng hậu như VnExpress vẫn có thể tạo ra một lượng nội dung khổng lồ không kém. Điểm yếu của sản phẩm tự động hóa cao là thiếu tính sống động thu hút của sản phẩm có sự can thiệp cao của con người.

Ngoài ra một yếu tố quan trọng của nội dung là đừng chiếm quá nhiều tài nguyên đường truyền và server như video, mp3, ảnh… Chỉ khi bạn có sự hỗ trợ của các đại gia túi rủng rỉnh tiền thì yếu tố này mới bớt quan trọng.

Một cái chết nổi tiếng từ dòng sản phẩm đi ngược tiêu chí 6 này hoàn toàn là từ điển lừng danh một thời Encarta Encylopedia của Microsoft.


7. Tốc độ

Có 3 loại tốc độ quan trọng là tốc độ tải trang/xử lý yêu cầu, kế đến là tốc độ cập nhật nội dung, và cuối cùng là tốc độ phản hồi người dùng.

Tốc độ tải trang và tốc độ xử lý yêu cầu thường phụ thuộc vào chất lượng công nghệ hoặc thiết kế giao diện của sản phẩm. Sản phẩm càng có nhiều người dùng thì càng phải lưu ý yếu tố này. Google đặc biệt quan tâm đến yếu tố này hơn hẳn các đại gia khác như Microsoft, Yahoo, Facebook. Tốc độ loại này đã khiến Clip.vn rơi vào thế yếu so với Youtube sau khi Youtube có server đặt tại VN. Đôi khi tốc độ xử lý yêu cầu thậm chí phụ thuộc các yếu tố bên ngoài sản phẩm/team như logistic, thuế quan địa phương, thời tiết… như trong trường hợp Amazon. Ở VN khi đặt hàng qua eBay Vietnam hình như mất khoảng 2 tuần.

Tốc độ cập nhật nội dung có khi phụ thuộc vào công nghệ sản phẩm (các loại search engine), hoặc phụ thuộc vào hành vi/tần suất sử dụng của người dùng. Với một thế giới ngày càng đòi hỏi kết quả phải nhanh hơn, thật hơn thì tốc độ của nội dung cực kỳ quan trọng. Ngay cả Google và Bing cũng không thể cung cấp kết quả search “realtime” mà phải cậy nhờ vào nội dung thời gian thực của Facebook và Twitter. Một yếu tố góp phần tạo ra sự thu hút của Tuổi Trẻ Online so với các báo điện tử khác là do tốc độ cập nhật tin của site này rất nhanh.

Cuối cùng một yếu tố tốc độ không thực sự nằm trong sản phẩm nhưng rất quan trọng là tốc độ phản hồi người dùng hay tốc độ duyệt nội dung của đội ngũ admin/mod. Có lần bạn tôi email nhờ Facebook hỗ trợ giải quyết một vấn đề liên quan fanpage, thật không ngờ chỉ trong vòng chưa đến 24h sau họ đã xử lý và trả lời nhanh chóng khiến bạn tôi rất ngạc nhiên và cảm kích. Điều này không hề đơn giản với một site có hơn 300 triệu người dùng trên toàn thế giới.

Hãy xem Google nói gì? "We keep speed in mind with each new product we release."


8. Cá nhân hóa

Cá nhân hóa là mức độ đáp ứng của sản phẩm đối với các yếu tố thuộc về thói quen sở thích và các thông tin cá nhân của từng người dùng cụ thể, thay vì phản ứng “trước sau như một” với hàng ngàn người dùng khác nhau. Đây là một hành vi mô phỏng lại thế giới thực trong quan hệ giữa người với người. Nếu hai người có mối quan hệ càng gần gũi và thân thiết thì càng hiểu rõ thói quen sở thích và thông tin cá nhân của nhau nhiều hơn.

Đây là một yếu tố hiện tại chưa quá quan trọng ở VN, nhưng càng ngày yếu tố này càng trở nên quan trọng hơn. Với ứng dụng mobile thì đây là một tiêu chí có tầm quan trọng hơn so với mức độ quan trọng của nó trên sản phẩm web, bởi vì một điện thoại di động chỉ dùng bởi một người, trong khi một máy tính có thể được dùng bởi nhiều người khác nhau. Các mối quan hệ 1-1 thường đòi hỏi tính cá nhân nhiều hơn các mối quan hệ 1-n.

Facebook đang rất quan tâm tới yếu tố này khi họ mới thay đổi các tính năng và privacy policy. Yếu tố cá nhân hóa cũng là một đặc tính rất quan trọng để họ thiết kế hệ thống quảng cáo hướng người dùng và thu hút các khách hàng quảng cáo. Mức độ cá nhân hóa cao cũng là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công của Adsense và Adwords. Tuy nhiên không phải sản phẩm mang tính cá nhân hóa nào cũng thu hút sự chú ý. iGoogle cũng không được ưa chuộng lắm thì phải?

Hiện tại hầu hết các sản phẩm web 2.0 ở VN chưa có tính cá nhân hóa, hoặc nếu có thì chưa có nhiều tính năng cá nhân hóa được ưa chuộng. Có vẻ chỉ các site âm nhạc có nhiều yếu tố này? Khi mức độ quan tâm đến cá nhân hóa của người dùng càng cao thì các site có khả năng tự động hóa cao như baomoi.com càng phát triển, và các site dạng forum càng gặp khó khăn hơn do tiêu chí 3 - tổ chức dữ liệu không tốt.

Thời hoàng kim Yahoo! 360 có vài tính năng cá nhân hóa rất được ưa chuộng ở VN là avatar, status, background theme.


***

Vì một sản phẩm “hoàn hảo” thường không có thật, nên một sản phẩm đạt 6 tiêu chí là siêu lắm rồi. Nếu đặt Google vào thì cũng chỉ đạt 7 điểm, tiêu chí thứ 5 “Tương tác cao” Google không “đạt chuẩn”. Facebook chắc được 7.5 điểm, trừ 0.5đ do khó sử dụng.

Trong 8 tiêu chí trên thì các tiêu chí 1 – lĩnh vực, 2 – nhu cầu là quan trọng nhất, nếu sai là “lên đường” luôn. 3 – tổ chức dữ liệu, 5 – tương tác, 6 – nội dung là rất quan trọng phải lưu ý từ đầu. Còn các yếu tố 4 – giao diện, 7 – tốc độ, 8 – cá nhân hóa nếu kém sau đó vẫn có thể điều chỉnh lại được.

Tuy nhiên một sản phẩm tốt chưa đủ để tạo nên thành công, ta phải xây dựng một hệ thống tốt xoay quanh sản phẩm để thành công. Vì thế bài kỳ tới sẽ là “Internet startup: 7 dấu hiệu của một hệ thống lý tưởng”.

http://www.facebook.com/note.php?note_id=279865104226

Bài kỳ trước: “Internet startup: 8 đặc điểm của một sản phẩm hoàn hảo – phần 1

Thursday, January 28, 2010

Startup Vietnam: 8 đặc điểm của một sản phẩm "hoàn hảo" - phần 1

Một Internet startup nếu có “Dream Team” rồi thế nào cũng sẽ tạo ra được một sản phẩm “hoàn hảo”. Như thế nào là một sản phẩm “hoàn hảo”, tôi thử liệt kê ra 8 tiêu chí sau, hy vọng các tiêu chí này cũng có thể ứng dụng vào việc đánh giá cả ứng dụng mobile.



1. Đúng lĩnh vực

Thứ nhất: sau một hồi “ngâm cứu” tôi phát hiện ra ở Việt Nam người ta chỉ quan tâm có hai điều: “Làm giàu” và “Giải trí” . Thử nhìn lại các sản phẩm tiêu biểu: VnExpress/DanTri – tin tức, giải trí thư giãn, Võ Lâm Truyền Kỳ - game online, 5giay – kết nối mua & bán, CafeF – thông tin tài chính. Sau đó tôi kiểm tra lại trên Top 100 Alexa VN thì lập luận này càng được khẳng định. 100 site thì một là site giải trí, hai là site mua bán. Thỉnh thoảng cũng lọt vào vài chú trung lập như Google, Yahoo, Tinhte, Vdict, Webtretho, … nhưng vẫn ít hơn 10%. Trong vòng 3-5 năm nữa, sản phẩm nào giúp người ta đạt được hai mục đích trên thật tốt thì chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý lớn từ xã hội.

Thứ hai: offline phải mạnh sẵn, “market size” đủ lớn. Ngay cả offline mà thị trường còn chưa phát triển thì làm sao online có cửa? Một minh họa chính là mảng âm nhạc. Ngay cả thị trường âm nhạc offline, các công ty âm nhạc còn bị vi phạm bản quyền, bán băng đĩa chả được bao nhiêu thì cũng dễ suy đoán tiếp số phận của âm nhạc online. Hy vọng sắp tới khi thị trường ứng dụng mobile phát triển thì các site âm nhạc có lối ra.

Thứ ba: chưa có quá nhiều đối thủ lớn. Quá nhiều là khoảng hơn 5. Ví dụ mảng tin tức và âm nhạc hiện giờ quá chua. Mảng âm nhạc đã chưa kiếm được tiền mà có tới 5-7 site, site nào cũng hầm hố cả: nhaccuatui.com(truy cập nhiều nhất), nhacso.net (FPT), yeuamnhac.com (IDGVV), pops.vn (Việt kiều Mỹ), mp3.zing.vn (VinaGame), nhac.vui.vn (24h)… Tôi thấy mảng nào có nhiều big player quá thì tôi bỏ chạy ngay, hoặc muốn liều mình đứng lại thì phải tạo ra một sản phẩm thực sự khác biệt với đám đông.


2. Đúng nhu cầu – định vị tốt

Sau khi vào đúng lĩnh vực mà không đánh đúng nhu cầu thì cũng trật đường ray. Giống như diễn thuyết giữa đường đông đúc người qua lại, nhưng không làm ai chú ý. Câu nói của Larry Page về một perfect search engine có thể áp dụng lại cho tiêu chí “đúng nhu cầu”: “it would understand exactly what you mean and give back exactly what you want.” Cần phải tập trung toàn lực vào nhu cầu cốt yếu nhất của người dùng mục tiêu.

Để đánh đúng nhu cầu cốt yếu nhất phải tìm ra được thói quen lớn nhất của đám đông. Ví dụ CafeF làm được điều này trong lĩnh vực chứng khoán. Những nhà đầu tư chứng khoán ở VN hầu hết đầu tư theo tin đồn, vì thế họ xem tin tức hàng ngày. Còn những sản phẩm “công nghệ cao” hơn như quản lý danh mục đầu tư, lọc cổ phiếu… có vẻ chưa tới thời cho lắm.

Các sản phẩm game online “hot:” nhất trên thị trường VN như Võ Lâm Truyền Kỳ, Thiên Long Bát Bộ, hay mới đây như Tây Du Ký vừa ra đã bị nghẽn forum (thật không?), đa số cũng đánh vào các nhu cầu đã có sẵn từ sự đam mê kiếm hiệp Kim Dung, Tề Thiên Đại Thánh của người VN.

Sau khi đã xác định nhu cầu cốt yếu nhất của người dùng, phải có định vị nhắm thẳng vào nhu cầu đó. Mọi thứ xoay quanh sản phẩm đều phải theo định vị. Đầu tiên là tên miền, tên miền phải dễ nhớ, ngắn gọn và dễ liên tưởng đến định vị. Kế đến thiết kế, tổ chức dữ liệu, các tính năng chính đều phải hướng định vị. Sau nữa thông điệp chính của các hoạt động tiếp thị quảng bá sản phẩm cũng phải tập trung làm nổi bật định vị.


3. Tổ chức dữ liệu tốt

Để tổ chức dữ liệu tốt, sản phẩm phải có một kiến trúc vững chắc và nhất quán trên một nền tảng công nghệ mạnh có chủ đích ngay từ lúc đầu. Nhìn vào các dòng sản phẩm của Google chẳng hạn, mọi sản phẩm sau này của họ đều xoay quanh công nghệ lõi search engine mạnh.

Dữ liệu phải được tổ chức theo cấu trúc rõ ràng, dễ mở rộng và dễ tùy biến để phù hợp nhu cầu thực tế tăng dần, hoặc trong trường hợp phải thiết kế lại kiến trúc từ đầu để phục vụ việc phát triển giai đoạn sau. Việc tái cấu trúc lại sản phẩm rất thường xảy ra, đặc biệt với startup khi lượng dữ liệu hoặc user bùng nổ do ban đầu sản phẩm phải được phát triển nhanh với chi phí thấp và nguồn lực nhân sự hạn chế.

Tốt nhất ban đầu việc thiết kế sản phẩm nên có một “concept” rõ ràng bắt nguồn từ định vị của sản phẩm như : PageRank - đánh giá trang dựa trên số lượng và chất lượng các trang trỏ tới trang đó, relationship-centric, hướng địa điểm…để sau này việc mở rộng các tính năng không bị phân tán, sai lạc với định vị ban đầu.

Tổ chức dữ liệu tốt cũng giúp cho việc quản lý thông tin và người dùng, bảo trì sản phẩm dễ dàng hơn sau này khi hệ thống đang hoạt động hết công suất dưới áp lực truy cập “real time” liên tục của người sử dụng. 5giay, Webtretho đáp ứng hai tiêu chí “lĩnh vực” và “nhu cầu” rất tốt, nhưng điểm yếu của họ là tiêu chí thứ 3 này. Đây cũng là điểm yếu của rất nhiều site thuộc họ forum đi lên vốn rất phổ biến ở VN.

Tổ chức dữ liệu không tốt sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố 4 - giao diện, 6 - nội dung, 7 – tốc độ, 8 – cá nhân hóa mà tôi sẽ tiếp tục phân tích tiếp dưới đây.


4. Giao diện thân thiện

Một giao diện người dùng tốt phải hội đủ 3 yếu tố: đơn giản, dễ sử dụng, các tính năng đúng định vị. Facebook lúc đầu phức tạp, khó sử dụng với người Việt nên không được ưa chuộng lắm.

Một giao diện tốt vừa nhìn vào đã thấy ngay được định vị của sản phẩm. Tôi nhớ có lần nghe Chris Harvey – CEO Vietnamworks thuyết trình về user interface. Chris nói các yếu tố quan trọng nhất là clear, focus, simple và “don’t make me think”. “Don’t make me think” ý nói đừng đánh đố người sử dụng, làm sao họ vừa nhìn thấy website lần đầu đã biết site này nói về gì, có tính năng gì chính yếu nhất.

Giao diện tốt cũng phải có user-flow rõ ràng, các tính năng/chuyên mục có sự liên kết với nhau chặt chẽ. Việc liên kết chặt chẽ giúp dẫn dắt người dùng “đi lòng vòng” trong site mà không thoát ra. Trên thế giới Internet chắc chỉ có mỗi Google đặt mục tiêu làm sao user vào rồi ra nhanh nhất, còn 99,99% các site khác đều muốn giữ chân user càng lâu càng tốt.

Tuy nhiên những giao diện đơn giản rõ ràng theo kiểu Mỹ chưa chắc đã hay ở VN. VN & TQ có khá nhiều site nhìn rối rắm vẫn rất đông người sử dụng. Một chiêu kiểu Việt là các loại Top này, Top nọ nhiều người đọc thường được người dùng ưa thích do ảnh hưởng của văn hóa đám đông. Đồng thời một giao diện thu hút cũng có một lượng vừa phải những hình ảnh minh họa sinh động và trực quan thay vì quá nhiều chữ [câu này bổ sung nhờ comment của bạn Lily Nguyen].

Thật ra, chẳng cần suy nghĩ gì cao siêu, cứ nghĩ mình đang sắp xếp mặt tiền của một tiệm cơm trưa bình dân. Có món gì thì xếp ra hết, các món ngon và hấp dẫn để ở những chỗ nổi bật. Những món như sườn nướng thì đem ra vỉa hè nướng cho nghi nghút khói, mùi thơm bốc lên phưng phức, ai đi ngang cũng thèm. Làm sao để “Dù không hay, nhưng ai cũng phải… ghé vào” là thành công rồi.

http://www.facebook.com/note.php?note_id=273129604226

----------------------------------------------
Bài kỳ trước: Startup Vietnam: Học Mỹ hay học Trung Quốc?”
Bài kế tiếp: “Startup Vietnam: 8 đặc điểm của một sản phẩm hoàn hảo – phần cuối”

Tuesday, January 26, 2010

Startup Vietnam: Học Mỹ hay học Trung Quốc ?

Tại sao phải học mà không tự “sáng tạo” tự nghiên cứu và chế ra những mô hình khởi nghiệp riêng ở VN? Đây là điều nếu không nói ra thì … ai cũng biết là vì Internet là một ngành mới, ở Việt Nam chưa có nhiều startup thành công để tham khảo. Vì thế ta phải học hỏi và “kế thừa” từ những nước có nhiều dotcom thành công như Mỹ với Google, Ebay, Amazon… và TQ với Baidu, Tencent, Alibaba, …

Khái niệm “học” ở trên được các quỹ đầu tư gọi là “proven model”. Các công ty Internet startup đi theo “proven model” còn có những lợi thế như được thừa kế mô hình công nghệ/kinh doanh, sao chép các tính năng sản phẩm, tham khảo các milestone và cách thức thực hiện kinh doanh tiếp thị của công ty “original model”.



Sao chép Mỹ

Mỹ là cái nôi của các dotcom, của Internet startup. Cái hay đã thấy rồi vậy đâu là điều dở? Từ khi quyết định đặt cược sự nghiệp của mình vào lĩnh vực Internet năm 2000 khi làm luận văn tốt nghiệp về cổng thông tin trên Internet, tôi tham khảo sách báo, Internet, mô hình team, sản phẩm… cũng chỉ từ các công ty Mỹ. Dù đã lường trước ở VN khác Mỹ rất nhiều, nhưng chỉ từ khi thành lập Skydoor và gặp rất nhiều khó khăn lớn ở những giai đoạn khác nhau, tôi mới thực sự nhận ra, là những gì “kiểu Mỹ” chỉ đúng “tại Mỹ” mà thôi.

Giờ đây, sau hàng loạt thất bại của các copycat dotcom, ai cũng có thể thấy sự khác biệt quá lớn giữa Mỹ và VN trong các vấn đề cốt yếu như: hạ tầng Internet, công cụ và thói quen thanh toán, trình độ hiểu biết Internet của người dân, mức độ online hóa và số lượng các công ty trong những ngành công nghiệp hỗ trợ như quỹ đầu tư, bán lẻ, tiếp thị…

Nếu phải lấy ra từ hàng loạt khác biệt ở trên điều quan trọng nhất, tôi sẽ gọi đó là “văn hóa”. Từ văn hóa sẽ hiểu được trình độ Internet của người dân và rất nhiều vấn đề khác như thanh toán, luật pháp, team, đầu tư… Như vậy làm sao để giảm được “khác biệt văn hóa” từ model Mỹ này? Đơn giản là hãy chọn một nước khác có nhiều “proven model” và văn hóa tương tự như văn hóa VN. Đó là TQ.


Mô phỏng Trung Quốc

TQ có một số điểm giống Vn là văn hóa tương tự, thói quen tương tự, cơ sở hạ tầng đi trước nhưng không cách VN quá xa như Mỹ. Một ví dụ cho thấy TQ là nơi có “proven model” đáng tham khảo là trong top 30 công ty Internet hàng đầu của TQ có rất nhiều công ty game online, đồng thời ở VN cũng có tình trạng tương tự.
Tuy nhiên mô hình TQ cũng có một số bẫy mà nếu ta không lưu ý thì sẽ có suy đoán không chính xác về những điều kiện thuận lợi mà TQ có, VN không có.

Bẫy độ lớn thị trường

Có một số sản phẩm ở TQ có thị trường, tuy nhiên nếu ở VN nhiều khi thị trường lại quá bé. So về GDP, TQ gấp 47.7 lần VN. Nếu tính cả độ cộng hưởng do quy mô lớn, thị trường TQ đã phát triển hơn thì với mỗi thị trường con độ lớn ở TQ phải gấp VN từ 50 – 100 lần. Do đó một thị trường có độ lớn chừng 500 triệu USD ở TQ thì ở VN chỉ tầm 5-10 triệu USD ở VN.

Thành công của Alibaba, một site B2B một phần nhờ vào quy mô của thị trường này, trong khi các site B2B ở VN lại gặp khó khăn với vấn đề này.

Bẫy rào cản ngôn ngữ & văn hóa đóng

Điều này thì Internet VN có vẻ khác hẳn với Internet TQ. Do tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Latin, nên các ký tự cùng hệ với tiếng Anh, từ đó người Việt đọc, học tiếng Anh dễ hơn người TQ với ngôn ngữ Hán tự. Đồng thời người Việt vẫn có tiếng là cởi mở, dễ hòa đồng với người nước ngoài hơn người TQ, vốn có tiếng là “đóng” với các nhóm dân tộc khác.

Chính vì thế mà mức độ sẵn sàng dùng thử các sản phẩm của quốc tế của người Việt có lẽ cao hơn hẳn so với người TQ. Đó là chưa nói đến độ khó trong việc xử lý tiếng Việt không phức tạp bằng xử lý tiếng Hoa.

Thành công của Baidu trước Google cũng không thể bỏ qua yếu tố ngôn ngữ và văn hóa đặc thù tại thị trường TQ.

Bẫy luật & chính sách nhà nước

Có những điều Baidu làm được mà Google không dám làm tại TQ như cung cấp các dịch vụ liên quan đến âm nhạc mp3, trong khi tìm kiếm nhạc chiếm một tỉ trọng không nhỏ trong traffic của Baidu. Những mạng xã hội như Tencent Qzone, 51.com… đương nhiên được hưởng lợi từ việc cấm cửa Facebook. Tudou, Youku các site video sharing phát triển mạnh mẽ vì không phải đánh nhau với Youtube. Còn ở VN, clip.vn thế nào sau khi Youtube xuất hiện?

Ngay cả vấn đề thanh toán trực tuyến, tôi chưa tìm hiểu, nhưng có lần tôi nghe một anh founder của Eachnet – một site đấu giá của TQ đã bán cho Ebay khoảng hơn 200M USD, hiện đang ở VN, nói rằng ban đầu chính phủ TQ bắt buộc mọi người phải dùng công cụ thanh toán của China Mobile (không nhớ rõ tên). Sau đó thì mọi người quen dần với việc thanh toán trực tuyến. Trong khi ở VN thì có 7,8 công cụ thanh toán trực tuyến, mỗi site lại dùng một công cụ khác nhau, cuối cùng chả ai biết nên dùng công cụ nào.

Vậy tại sao không dùng chính proven model ở tại VN? Ở VN lượng mẫu quá ít, nhìn qua lại chỉ thấy vài công ty sáng giá. Tuy nhiên có những khâu giống nhau ở các công ty Internet trong các lĩnh vực khác nhau mà ai cũng có thể tham khảo ở số ít các công ty đã thành công như: team, cách thức phát triển sản phẩm, phương thức thanh toán, ... Và đây mới là điều thực sự đáng giá hơn là việc học Mỹ hay học TQ.

Tôi thích một khái niệm tôi cải tiến từ thuyết tiến hóa của Darwin: “những công ty đã thành công chứng tỏ họ thích nghi được với thị trường”. Hay như triết gia Hegel có nói “Điều gì tồn tại thì hợp lý, điều gì hợp lý sẽ tồn tại”.

http://www.facebook.com/note.php?note_id=269844584226

Link tham khảo







  • Top 30 công ty internet TQ








  • Top chinese sites








  • Top web apps in China

    Bài kỳ trước:  Startup Vietnam: Những ngôi sao dotcom mới 
  • trên Facebook  Internet startup: Những ngôi sao dotcom mới
    Bài kỳ sau: ???
  • Thursday, January 21, 2010

    Startup Vietnam: Những ngôi sao dotcom mới?

    Đã lâu rồi từ khi những dotcom như VnExpress, VietnamWorks, VinaGame chứng tỏ được thành công và sự nổi bật của họ trên Internet. Từ đó đến nay có khá nhiều Startup Vietnam đã xuất hiện, đến rồi đi, hoặc đang âm thầm lặng lẽ tiến lên, nhưng hình như đấu trường Internet vẫn chưa thấy nhiều gương mặt mới tỏa sáng. Bài này tôi thử điểm qua một vài gương mặt có nhiều tiềm năng thành… sao.



    1. CafeF.vn – Điểm hẹn của nhà đầu tư tài chính

    Thị trường chứng khoán VN hiện đang trồi sụt thất thường, nhưng lượng truy cập vào Cafef vẫn đang tăng ổn định. Tôi đoán phải hơn 80% các nhà đầu tư chứng khoán có dùng Internet đều biết đến CafeF. CafeF tập trung vào thông tin chứng khoán và các thông tin tài chính đầu tư liên quan như bất động sản, ngân hàng trong nước và thế giới…

    Điểm mạnh
    - Đánh trúng tâm lý đầu tư theo tin tức của đại đa số nhà đầu tư chứng khoán VN.
    - Giao diện đơn giản dễ nhìn, cực kỳ “user-friendly”, nói không ngoa là một trong vài site có giao diện “pro” nhất hiện nay.
    - Tin tức cập nhật hàng giờ và rất sát với nhu cầu nhà đầu tư chứng khoán.
    - Được hỗ trợ bởi VCCorp một công ty Internet thuộc dạng kỳ cựu “hiểu Internet” nhất VN và có những site con rất “ăn khách” như Dantri, Kenh14, enbac…
    - Về mặt chuyên môn & tài chính có sự hỗ trợ của tập đoàn Vincom – một trong những tập đoàn tài chính – bất động sản có mức vốn hóa hàng đầu hiện nay.

    Các cách thu tiền đa dạng
    - Quảng cáo banner truyền thống
    - Thu tiền từ công ty cổ phần để: đăng bài giới thiệu/quảng bá, cập nhật thông tin/số liệu tài chính trong database
    - Thu tiền từ các công ty chứng khoán thể hiện các bảng giá trực tuyến, biểu đồ thống kê.
    - Khác: các gói thông tin/thống kê cho các đơn vị tổ chức trong ngành, thu tiền từ end-user trong tương lai.

    Khách hàng trả tiền tiềm năng: công ty cổ phần niêm yết/sắp niêm yết, công ty chứng khoán, ngân hàng, công ty bất động sản, các khách hàng quảng cáo các mặt hàng đắt tiền như xe hơi…
    Với lợi thế thu hút được một lượng lớn các user trung thành hàng ngày, đặc biệt trong lĩnh vực “gần tiền” như tài chính – thì khả năng tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của Cafef rất cao.

    Điểm yếu: chưa có những thông tin và công cụ chuyên sâu hơn và đây là điểm mà Stox.vn một đối thủ tiềm năng nhất của Cafef có thể khai thác. Tuy nhiên trong tương lai gần thì đa số các nhà đầu tư chứng khoán VN chỉ quan tâm tin tức mà chưa có thói quen sử dụng những tính năng “advanced” vốn là lợi thế của Stox.

    2. 5giay.vn – Diễn đàn mua bán sôi động nhất

    Khởi nguồn từ một diễn đàn trao đổi thông tin về linh kiện máy tính do vài người chủ công ty máy tính Nhật Nguyệt xây dựng vào giữa năm 2004, 5giay đã dần dần thu hút những người sử dụng là những người mua bán ở các cửa hàng nhỏ ở khắp nơi, đặc biệt là những cửa hàng buôn bán máy tính, điện thoại di động, đồ điện tử. Theo 5giay, họ có 350.000 thành viên thường xuyên trao đổi, 1.7 triệu lượt truy cập hàng ngày.

    Có thể nói rất nhiều cửa hàng buôn bán nhỏ, những người bán lẻ dạng eShop sống nhờ vào 5giay như một kênh bán hàng chính. Đây cũng là điểm mạnh nhất của 5giay khi dịch vụ đáp ứng đúng nhu cầu thiết thực của nhóm mua bán đông đúc nhất, đúng kiểu “văn hóa VN” nhất. Điểm mạnh này xuất phát từ chính nhu cầu ban đầu của các founders 5giay là bán được linh kiện cho chính công ty của họ. Vì thế họ rất hiểu user, và thu hút lượng user y như bản thân mình.

    Tuy xuất phát từ một công ty – cửa hàng nhưng 5giay tổ chức bộ máy khá chuyên nghiệp. Họ có riêng công ty truyền thông số iGo phục vụ cho việc marketing và bán quảng cáo. Các nhân viên của iGo phục vụ khách hàng rất nhanh, nhiệt tình qua các kênh điện thoại, chat, email, trực tiếp…

    Nguồn thu của 5giay đến từ kênh quảng cáo banner là chính, cùng với các dạng tin VIP, up tin… Theo một nguồn tin thân cận của founders 5giay vào cuối năm 2008, mỗi tháng sau khi trừ chi phí các kiểu, chủ 5giay còn một khoản ~ 300 triệu.

    Điểm mạnh: lượng khách hàng trung thành lớn và giao dịch thường xuyên, tổ chức quản lý các box tốt, có công ty tiếp thị - quản lý quảng cáo riêng.

    Điểm yếu: chỉ có thể nói là “điểm chưa mạnh” là khả năng mở rộng quy mô & quản trị, chưa có công nghệ hỗ trợ nên sẽ khó khăn để chuyển đổi mô hình lên các hình thức cao hơn. Tuy nhiên với nhu cầu hiện tại của những người mua bán nhỏ thì 5giay đáp ứng rất tốt và có thể nói nếu bổ sung được những điểm mạnh này 5giay sẽ thực sự là một eBay của VN trong tương lai.

    Đối thủ: 5giay có khá nhiều đối thủ “nặng ký” như chodientu.vn của PeaceSoft, 123mua.com.vn của VinaGame, vatgia.com – có đầu tư từ IDGVV và một quỹ venture Nhật Bản. Trong số này vatgia đang phát triển với một tốc độ rất nhanh và theo một nguồn tin từ quỹ đầu tư thì vatgia hiện đang phát triển doanh thu khá tốt.

    Lợi thế chính của 5giay so với vatgia có lẽ là lượng “direct user” hàng ngày rất cao, còn lượng user của Vatgia đến từ nguồn SEO hẳn là không nhỏ (cái này là suy đoán, không có số liệu chính thức). Ngoài ra có khá nhiều website mua bán khác “hầm hố” không kém là enbac của VCCorp, nava.com của Nhaccuatui, muare.vn

    3. muaban.net – Điểm rao vặt không thể thiếu

    Dù rất nhiều website rao vặt đã chiếm thị phần trên Internet trước, nhưng muaban.net đã nhanh chóng trở thành site rao vặt thuộc dạng “Top of mind”, được nhắc đến hàng đầu khi ai đó cần rao thông tin mua bán nhà đất, xe cộ, thiết bị…

    Đối tượng khách hàng “trung thành” của muaban.net cũng tương tự như 5giay.vn, tuy nhiên muaban.net chỉ có tính liệt kê mà không có tính tương tác như 5giay. Với lượng thông tin đa dạng và phong phú từ báo giấy, muaban.net tiếp tục thu hút thêm lượng khách rao vặt trực tiếp trên Internet.

    Điểm mạnh: nhắc đến muaban.net không thể không nói tới hậu thuẫn offline của họ là tờ báo Mua & Bán, một tờ báo có thể nói là thuộc dạng lý tưởng nhất trong làng báo VN dù nội dung thuộc dạng “rao vặt đường phố”. Lượng phát hành hàng ngày của báo Mua & Bán giấy thuộc dạng nhiều nhất VN với hàng trăm ngàn bản mỗi ngày.

    Nguồn thu của muaban.net đến từ tiền đăng tin rao thông qua SMS, online payment (Mobivi, Vinapay), offline. Trong khâu thanh toán một lợi thế lớn của họ so với các đối thủ khác là có các văn phòng đại diện offline của báo giấy rộng khắp các quận của những thành phố lớn như HN, HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng.

    Đối thủ lớn của muaban.net hẳn là vatgia.com - vốn đang được xem là một site listing không thể thiếu với khả năng SEO cực tốt của mình.

    Gần đây muaban.net đã có hẳn một CEO được đào tạo từ Mỹ vốn là một Senior Assciate được IDGVV cử sang. Với nhiều lợi thế như vậy, muaban.net có thể sẽ là Craiglist của VN trong tương lai. Tuy nhiên không hiểu sao gần đây muaban.net lại bị rớt ra ngoài top Alexa 100 Việt Nam???

    Ngoài ra có một số website rất có tiềm năng khác như ken.vn, diaoconline.vn…

    http://www.facebook.com/note.php?note_id=260584434226

    Bài kỳ trước:  Startup Vietnam: 10 sai lầm thường gặp của startup
    Trên FB & bình luận: Internet startup: 10 sai lầm thường gặp của startup
    Bài kỳ tới – Thứ 3 ???

    Tuesday, January 19, 2010

    Startup Vietnam: Đi tìm "Dream Team"

    Đâu là một mô hình “Dream Team” lý tưởng để có một Internet startup thành công? Dream Team sẽ gồm những đối tượng như thế nào? Tôi thử phác họa xem sao.



    1. Chuyên gia lĩnh vực

    Nếu dotcom đó hoạt động trong những lĩnh vực chung chung như: tìm kiếm, mạng xã hội… thì có lẽ không cần nhà chuyên môn trong lĩnh vực. Nhưng nếu dotcom thuộc những lĩnh vực hẹp hơn như chứng khoán, bất động sản, game, … thì nhà chuyên môn là một nhân vật khó có thể thiếu được. Chuyên gia trong lĩnh vực sẽ chính là hoa tiêu hướng dẫn con tàu dotcom đi đúng hướng đến trái tim của người sử dụng. Nếu mọi thứ công nghệ, tài chính, … đều tuyệt hảo mà đánh trật mục tiêu thì mọi công sức đều trở thành vô nghĩa.

    Thử nhìn các dotcom thành công hiếm hoi như VnExpress, VietnamWorks, VinaGame, họ đều có một chuyên gia lĩnh vực trong team ban đầu của mình. VnExpress có Thang Đức Thắng, anh là một nhà báo kỳ cựu nhiều kinh nghiệm – Trưởng ban báo Điện tử báo Lao Động. Còn ở Vietnamworks đó chính là Jonah Levey, một chuyên gia nhân sự ở Mỹ. Với CEO của VinaGame, anh Lê Hồng Minh từng là một trong những game thủ xuất sắc nhất Việt Nam.

    2. Chuyên gia công nghệ

    Nói đến dotcom, thông thường người ta hay nghĩ ngay đến từ công nghệ cao. Việc có một chuyên gia công nghệ xuất sắc trong đội hình xuất phát sẽ là một “vũ khí đột phá” để tạo một lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ lúc đầu về các khía cạnh: tốc độ phát triển, khả năng tự động hóa để giảm thiểu chi phí…

    Đồng thời một khi hệ thống bắt đầu phát triển quy mô lớn thì người kiến trúc sư này sẽ rất quan trọng trong việc tạo ra một kiến trúc bền vững cho tòa cao ốc dotcom có thể đứng vững và phát triển với gia tốc lớn.

    Tuy nhiên tùy thuộc vào loại hình mà đôi khi một dotcom không cần phải có năng lực công nghệ thật mạnh để thành công. Trang 5giay.vn, mạng thương mại điện tử rất thành công đi lên từ một diễn đàn open source đơn giản.

    3. Nhà quản trị dotcom

    Nhà quản trị dotcom giỏi phải biết được khả năng của sức mạnh công nghệ có thể áp dụng vào đâu để đáp ứng đúng nhu cầu của người sử dụng. Đồng thời nhà quản trị cũng phải có một tư duy “thương mại hóa” để có thể biến những lợi thế đã đạt được thành kết quả cụ thể, chính là lợi nhuận.

    Nhà quản trị phải biết được đâu là điểm yếu của team để tìm cách cân bằng và lấp lỗ hổng. Nếu Mr Trương Đình Anh không mời Mr Thang Đức Thắng đã nói ở trên về phụ trách VnExpress mà tự quản lý bằng tư duy của một nhà kỹ thuật thì VnE sẽ đi đến đâu?

    Đặc biệt nhà quản trị dotcom phải am hiểu về Internet, những lợi thế của Internet cũng như những vấn đề thuộc về tâm lý và nhu cầu, thói quen của người dùng Internet. Thông thường với thuyết quản trị, vị trí ở càng cao thì nhà quản trị càng dễ luân chuyển sang một lĩnh vực mới hoàn toàn. Nhưng Internet là một ngoại lệ mà thuyết quản trị này không còn ứng nghiệm.

    3 nhân vật ở trên tôi nghĩ là không thể thiếu với một team xuất phát. Thực ra 3 người này không hẳn tách bạch chuyên môn như vậy mà có thể đan xen lẫn nhau. Tuy nhiên ít khi một người có cả 3 điểm trên, nên thường một Internet team phải có từ 2 người trở lên là vậy.

    4. Marketeer & Salesman

    Đây là tướng tiên phong để tấn công ra chiến trường và giành thị phần. Một team với một marketeer nhiều kinh nghiệm sẽ giúp dotcom lấy được cảm tình của người sử dụng với một chi phí thấp nhất. Vì tài chính của startup thông thường là một con số khiêm tốn nên việc có một Marketeer từ đầu sẽ giảm thiểu rất nhiều chi phí. Tương tự nhà quản trị, Marketeer cũng phải hiểu được đặc thù sản phẩm hi-tech mới có thể làm việc hiệu quả.

    5. Chuyên gia tài chính

    Đây là người giữ túi tiền nho nhỏ của Internet startup lúc đầu và làm cho nó to ra khi tìm kiếm đầu tư, phát triển quy mô lớn. Vì tư duy của chuyên gia tài chính là “money mind”, đo hiệu quả bằng tiền, nên vị trí này sẽ giúp cho các startup founder bớt mơ mộng, tập trung vào việc tạo ra một mô hình kinh doanh hiệu quả.

    Đồng thời các quỹ đầu tư cũng yên tâm hơn khi trao tiền cho một team có “người quản lý tiền” giỏi. Hẳn việc xuất thân là một nhà chuyên môn tài chính, từng làm ở một vị trí quản lý cấp cao của VinaCapital của anh Lê Hồng Minh là một lợi thế không nhỏ của VNG lúc gọi vốn ban đầu.

    6. Người nước ngoài/ Việt kiều

    Đối tượng này thường là có khả năng quản trị tốt và có nhiều lợi thế về mặt quan hệ quốc tế, quan hệ với quỹ đầu tư. Đồng thời với kinh nghiệm và trải nghiệm của họ ở những thị trường Internet đã “trưởng thành” cũng giúp cho team tăng thêm vài thành “công lực”.

    7. Chuyên viên quan hệ nhà nước

    Đây là một vị trí nhạy cảm và thông thường chỉ được bổ sung khi dotcom đã phát triển đến một mức độ nhất định. Dù gì thì ở một thị trường chưa phát triển như ở VN thì người có “chuyên môn” này sẽ giúp cứu thua đội nhà trong nhiều tình huống dễ bị cháy lưới vì những ràng buộc, chồng chéo của một hệ thống luật chưa hoàn chỉnh.
    Ngay cả bên Mỹ Google còn mời cựu phó TT Mỹ Al Gore làm cố vấn thì ở công ty VN chắc cũng không nên bỏ qua vị trí này.

    Đâu là công ty có một Dream Team ở trên? Bạn thử nghĩ xem, nếu dotcom nào có một team như vậy thì tôi nghĩ việc thành công chỉ là vấn đề sớm muộn.

    Bài trên Linkhay với một số ý kiến phản biện: http://linkhay.com/link97290/internet-vn-di-tim-dream-team-150
    http://www.facebook.com/note.php?note_id=248889429226

    Bài kỳ trước: Trên FB & bình luận Startup Vietnam: Dotcom và tiệm sửa xe – kỳ cuối: www.SuaxeOnline.com

    Bài tiếp theo - thứ 3: Startup Vietnam: 10 sai lầm thường gặp của startup

    Internet startup: 10 sai lầm thường gặp của startup

    Dưới đây tôi tổng hợp lại một “bộ sưu tập” các sai lầm mà chính bản thân Skydoor, startup bạn bè tôi, hay một số Internet startup khác thường mắc phải. Đồng thời tôi cũng thử đưa ra một hai giải pháp từ quan điểm cá nhân để giảm thiểu hậu quả của những sai lầm này.



    1. Không đủ Dream Team

    Tuy nhiên, đã Dream Team thì ít khi có thật, vì thế ban đầu startup chỉ cần 3 vị trí đầu trong Dream Team là quá ổn rồi. Nếu thiếu một thì startup đó sẽ gặp ngay các vấn đề khi: phát triển sản phẩm, hiện thực mô hình kinh doanh, làm việc với quỹ đầu tư. Không có Dream Team hoặc có Dream Team nhưng các thành viên không làm việc được với nhau là sai lầm (hoặc khiếm khuyết) lớn nhất mà một Internet startup có thể mắc phải. Và nó cũng sẽ dẫn đến những sai lầm khác.

    2. Chọn sai “ao”

    Ao ở đây là thị trường. Nếu chọn ao to quá, có nhiều cá mập thì đó không phải là ao nữa, mà là đại dương đỏ khốc liệt. Nếu chọn ao bé quá, ít cá thì sau này khó mở rộng quy mô hoạt động, và quỹ đầu tư cũng không quan tâm những startup đang bơi trong những ao quá bé. Chọn ao tốt mà mình không biết kỹ thuật đánh bắt thì cũng khó mà bắt được cá to.

    IDGVV có một slide nói về hơn 10 cái ao mà họ quan tâm dạng như: game online, jobs online, mobile services… tại đây .

    3. Theo “kiểu Mỹ”

    Mỹ có quá nhiều điểm khác biệt với VN về hạ tầng, văn hóa, trình độ hiểu biết Internet/công nghệ của người dân nên nên sản phẩm hot ở Mỹ chưa chắc đã được quan tâm ở VN, nhiều người quan tâm chưa chắc đã kiếm tiền được. Nôm na là đem cá ở ao Mỹ về thả ở ao VN, chắc gì đã sống, môi trường ô nhiễm quá mà.

    Để cá có xác suất tồn tại cao, nên chăng chọn cá ở những ao có môi sinh tương tự VN ? Hiện FPT, VinaGame đều đang quan tâm “theo đuôi” mô hình những dotcom TQ như Tencent. Chắc họ phải có lý do rồi.

    4. Quá lạc quan hay ‘Think big”

    Có lẽ những người làm startup hay dễ lạc quan hơn bình thường một chút, vì startup là một hành vi “đầu tư mạo hiểm”. Dám mạo hiểm thì phải lạc quan. Lạc quan thì thường “think big”. Think big sẽ dẫn đến việc đặt mục tiêu quá cao, không khả thi. Hoặc lạc quan quá lại hay kỳ vọng, kỳ vọng không đạt được sẽ dễ thất vọng, nản chí. Ngoài ra lạc quan quá cũng dễ dẫn đến việc chi tiêu không hợp lý, đốt nhanh hết tiền.

    “Think big” chắc nên đi kèm với “Act small”?

    5. Quá coi trọng ý tưởng

    Có lẽ nguồn gốc của việc coi trọng ý tưởng xuất phát từ Mỹ. Ở Mỹ có quá nhiều người xuất sắc và quá nhiều người có thể hành động để hiện thực ý tưởng, nên nếu Internet startup nào có một ý tưởng khác biệt thì dễ thành công hơn. VN là một nước đang phát triển, mọi thứ đều chưa hoàn hảo, chỉ cần lên mạng dò 5 phút hoặc du lịch 3 ngày sang TQ, Sing, Úc… là có ngay cả tá ý tưởng có thể áp dụng ở VN. Quá coi trọng ý tưởng dẫn đến việc giấu giếm thông tin, không thể nhận được phản hồi từ khách hàng mục tiêu, bạn bè, nhà đầu tư… nên dễ dẫn đến những chệch choạc về sau.

    Vấn đề có lẽ là ai sẽ hiện thực ý tưởng tốt nhất, kiên trì nhất chứ không phải ai là người có ý tưởng tốt nhất, sớm nhất.

    6. Giới thiệu sản phẩm quá chậm/ quá nhanh

    Thường gặp ở VN chắc là launch sản phẩm quá chậm. Đưa sản phẩm ra công chúng chậm sẽ nhận được phản hồi của từ thị trường chậm, do đó nhiều khi tiêu tốn quá nhiều thời gian công sức tiền bạc vào những thứ người sử dụng không quan tâm. Launch sản phẩm quá nhanh dẫn đến việc đưa ra nhiều tính năng dư thừa người dùng không cần đến. Nhưng dù sao nhanh vẫn tốt hơn chậm, vì cái sai của nhanh dễ sửa hơn sai của chậm, và chi phí cơ hội cũng ít hơn. Một lý do startup hay ngần ngại đưa ra sản phẩm sớm là như mục 5 “Quá coi trọng ý tưởng”.

    Lẽ thường một sản phẩm trước lúc “hoàn hảo” phải thay đổi điều chỉnh năm bảy bận là ít.

    7. Không dùng thức ăn của chó

    Sai lầm này kỳ cục nhỉ? Microsoft có một câu: “Eat your own dog food”. Sản phẩm của Microsoft trước khi đưa ra thị trường sẽ được cài đặt cho tất cả các nhân viên phòng ban liên quan sử dụng. Developer phải đứng ở góc độ của người dùng bình thường thì mới tạo ra được những sản phẩm xuất sắc và “user-friendly”. Các thành viên trong startup dễ rơi vào trường hợp sử dụng sản phẩm của chính mình ít, hoặc không được thường xuyên và sẽ xa rời user của mình.

    Bạn đi xa ra khỏi user thì làm sao họ có thể yêu mến bạn?

    8. Chú trọng vào tiếp thị hơn cải tiến sản phẩm

    Startup thường lo lắng: “Làm sao để tiếp thị sản phẩm?”. Và bắt đầu tuyển ngay một chuyên gia tiếp thị khi có đầu tư, sau đó tập trung marketing đủ kiểu từ SEO đến báo chí online, offline để thu hút khách hàng mới… thay vì tập trung hoàn thiện sản phẩm, hoặc duy trì tốt mối quan hệ với những khách hàng trung thành hiện tại của mình (CRM).

    Tiếp thị thực sự bắt đầu khi chọn ý tưởng, khi thiết kế các tính năng sản phẩm chứ không phải khi tên startup của bạn xuất hiện trên một tờ báo. Thử nhìn các sản phẩm của Google được tiếp thị theo cách nào?

    9. Không yêu tiền

    Dân startup thường có tech-background. Dân tech-background hay quan tâm đến việc tạo ra sản phẩm mà ít nghĩ đến việc kiếm tiền từ sản phẩm đó như thế nào, ngay từ đầu. Dĩ nhiên “kiếm tiền” là câu hỏi “To be or not to be?”, sớm muộn ai cũng phải trả lời. Vì thế ai chịu khó trả lời sớm thì sẽ có kinh nghiệm hơn. Một số startup thậm chí đã được đầu tư nhưng cũng chưa chịu “thử” kiếm tiền, dù ít. Liệu mô hình kinh doanh của họ có khả thi hay không?

    Kiếm tiền từ sản phẩm và kiếm tiền từ nhà đầu tư hẳn là hai câu hỏi cụ thể cần trả lời theo trình tự và càng sớm càng tốt, ngay từ lúc thành lập startup. Phải tập có "money mind" hoặc xem lại bài Đi tìm Dream Team.

    10. Chưa tích lũy đủ sai lầm

    Tôi nhớ Einstein có một câu nói “Thiên tài là người phạm hết các sai lầm trong một lĩnh vực”. Thống kê ở Mỹ cũng cho thấy thường một entrepreneur thành công phải lập hơn 3 startup rồi mới có kết quả. Điều này phù hợp với quy luật biện chứng về lượng & chất “ phải tích lũy đủ một lượng nào đó thì chất mới đổi”.

    Thử đi hỏi những người thành công, số lượng sai lầm của họ hẳn là vô số, có điều bạn ít thấy sai lầm được nói đến trong những bài báo viết về họ mà thôi. Kinh nghiệm khởi nghiệp không lúc nào thừa.

    ---


    Tóm lại, nếu phải lấy ra thứ quan trọng nhất thì tôi chọn sai lầm số 1 cho điều kiện cần và sai lầm số 10 cho điều kiện đủ phải giải quyết để hình thành một startup thành công.

    http://www.facebook.com/note.php?note_id=257285254226

    Bài kỳ trước: Internet startup: Đi tìm Dream Team
    Bài tiếp theo - Thứ 5: Internet startup: Những ngôi sao dotcom mới?

    Tuesday, January 12, 2010

    Internet startup: Dotcom và tiệm sửa xe – phần cuối: www.SuaxeOnline.com

    Một hôm tôi bỗng nổi hứng giã từ sự nghiệp Internet startup để giải nghệ và mở tiệm sửa xe (TSX). Ngoài những lợi thế của TSX trong bài trước, tôi phát hiện ra TSX có một vấn đề chung với dotcom là niềm tin và một góc độ kém hẳn so với dotcom là thương hiệu.



    Lợi thế của Internet

    Niềm tin là khi bạn đi đâu đó và bị hư xe, bạn muốn sửa xe nhưng không biết nên vào tiệm nào, vì khả năng bạn bị chặt chém là khá cao. Đặc biệt là khi bạn bị cán đinh, một xác suất khá cao khi bạn dắt xe vào các tiệm ven đường là bị họ làm đứt luôn chỗ nối van xe và ruột xe để thay mới với giá cắt cổ.

    Vấn đề thương hiệu là có vô số tiệm sửa xe, và bạn không biết tiệm nào thật sự uy tín. Chỉ khi bạn nghe người quen giới thiệu một tiệm nào đó ở gần nhà thì bạn mới tạm yên tâm về chất lượng dịch vụ, giá cả.

    Để giải quyết vấn đề niềm tin, cần phải tạo một dịch vụ uy tín, giá cả rõ ràng, có thương hiệu hẳn hoi. Để giải quyết vấn đề thương hiệu, tôi đem dịch vụ này lên Internet. Vì thế tôi mở một dotcom: www.SuaxeOnline.com Thật ra đây không phải là một dotcom, tôi chỉ lấy những lợi thế của một dotcom áp vào một mô hình thực tế để có thể nhìn nhận rõ một khía cạnh “quyền lực” của dotcom mà thôi.

    Khởi nghiệp

    Ban đầu tôi dự tính mở một tiệm nho nhỏ ở mặt tiền đường gần nhà, nhưng phải cách xa tiệm của anh chàng cùng hẻm một khoảng hơn 300m để tránh cạnh tranh trực tiếp. Sau đó suy đi nghĩ lại tôi thấy tự mình làm ăn kiểu này không ổn. Tôi quyết định mời anh ta tham gia hùn vốn, làm co-founder :p Lúc đầu anh ta ngần ngừ không muốn hợp tác, vì tự anh ta đã đang ăn nên làm ra. Nhưng tôi lấy lý do khả năng mở rộng ra nhiều tiệm, và khả năng xây dựng một thương hiệu sửa xe nổi tiếng cả nước ra thuyết phục, cuối cùng anh ta cũng xiêu lòng.

    Thật là may mắn, bộ sậu tạm ổn. Vì tôi chỉ hiểu biết về Internet và một chút ít về quản trị, thương hiệu. Nếu tôi tự mình dấn thân vào lĩnh vực này sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Còn anh ta là một chuyên gia trong lĩnh vực “sửa xe”. Có vẻ chúng tôi có một “Dream Team” rồi.

    Kế hoạch của chúng tôi khá đơn giản, ban đầu chúng tôi phát triển một tiệm sửa xe như mô hình anh chàng kia đã làm, chỉ khác một chút: tiệm có một bảng hiệu rất oách www.SuaxeOnline.com và sẽ dùng những lợi thế của Internet để marketing và thu hút khách hàng. Điều này có vẻ khá dễ dàng, vì gần như trên Internet dịch vụ này là độc nhất vô nhị, thế nào mọi người cũng truyền miệng khắp nơi, và báo chí rồi sẽ đến viết bài ầm ầm :P

    Sau đó chúng tôi sẽ gọi vốn đầu tư và phát triển mô hình nhượng quyền thương hiệu kiểu như Thegioididong.com. Hiện giờ Thegioididong có hơn 40 cửa hàng trên khắp cả nước sau nhiều năm hoạt động, với mô hình này tôi e là SuaxeOnline có thể phát triển đến 4000 cửa hàng toàn quốc chỉ trong vòng 5-10 năm chứ chả chơi.

    Mô hình nhượng quyền thật ra không hề đơn giản, phải quản lý đủ thứ vấn đề: nguồn cung cấp, tiếp thị… và đặc biệt là quản lý sự nhất quán của toàn hệ thống. Nhưng thôi, đây là một vấn đề lớn ngoài chủ đề của bài này. Thử phân tích khả năng thương mại hóa của www.SuaxeOnline.com (SO) xem sao. Xét đến khả năng “tăng thu”, “giảm chi”.



    Tiệm sửa xe giảm chi bằng cách nào?

    Thông thường tiệm sửa xe chi vào những khoản sau
    - Mặt bằng
    - Máy móc thiết bị
    - Nhân sự
    - Chi phí mua phụ tùng

    Để giảm chi => thuê mặt bằng trong hẻm, hoặc sửa xe tận nơi. Điều này khác với các TSX thông thường hay nằm ở mặt tiền. Các yếu tố khác cũng như TSX thông thường, chỉ khác chỗ khi nào có nhiều TSX trong hệ thống SuaxeOnline thì sẽ mua được máy móc, phụ tùng với giá rẻ hơn nhờ lợi thế của quy mô.

    Tiệm sửa xe tăng thu bằng những cách nào?

    - Tăng giá dịch vụ, phụ tùng
    - Thu hút thêm nhiều khách hàng mới.
    - Thuyết phục khách hàng cũ đến thường xuyên hơn
    - Thuyết phục khách hàng sửa nhiều hơn trong một lần đến
    - Thuyết phục khách hàng thay phụ tùng nhiều hơn trong một lần đến.

    Ngoài việc chỉ có thể tăng giá cao hơn thông thường một chút, thì các vấn đề còn lại đều phải giải quyết bằng cách quản trị chất lượng (dịch vụ sửa xe, linh kiện) và quản trị chi phí và marketing. Thông thường ngoài chi phí nhân sự thì chi phí marketing chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng chi phí.

    Chi phí marketing cho SO sẽ cực thấp vì

    · Online: SO sẽ được lan truyền rất nhanh vì tính khác biệt và duy nhất của nó
    · Offline: ngoài việc được “thừa kế” sự nổi tiếng từ Internet thì hệ thống cửa hàng offline lại tiếp tục quảng bá ngược SO lên Internet thông qua bảng hiệu từng cửa hàng chính là tên miền online www.SuaxeOnline.com nên “Ai đi qua cũng phải ngoái nhìn”.

    Như vậy SuaxeOnline khác với sửa xe thông thường ở những điểm nào?

    1. Thương hiệu
    Thương hiệu này đại diện cho sự nhất quán về giá cả, chất lượng dịch vụ, hệ thống nhận diện thương hiệu…

    2. Vị trí
    Mặt bằng của SuaxeOnline có thể mặt tiền, trong hẻm, thậm chí ở tuốt trên lầu 14 (thợ đến tận nhà khách hàng để sửa xe). Đồng thời do nhượng quyền nên khách hàng khắp nơi đều có thể sử dụng SuaxeOnline.

    3. Phương thức tiếp cận khách hàng
    · Tiếp cận qua Internet
    Khách hàng có thể tìm danh sách các tiệm SuaxeOnline, bảng giá dịch vụ/phụ tùng… trên website.
    · Tiếp cận qua mobile
    Khi đang đi trên đường bất kỳ nơi nào và bị hư xe, khách hàng có thể gửi tin nhắn “SO” đến đầu số 8777 để nhận được danh sách 3 tiệm SO gần nhất, yên tâm dắt xe đến sửa, hoặc gọi thợ đến sửa tận nơi mà không sợ bị chặt chém.

    Bạn nào muốn sử dụng dịch vụ của SuaxeOnline vui lòng để lại email, tôi sẽ gửi newsletter thông báo nhân ngày khai trương tiệm sửa xe đầu tiên.

    http://www.facebook.com/note.php?note_id=245485914226

    Các bài viết liên quan

    · Bài kỳ trước: Internet startup: Dotcom và tiệm sửa xe – phần 2: Mô phỏng tiệm sửa xe
    · Bài tiếp theo – Thứ 5: Internet startup: Đi tìm Dream Team

    Friday, January 08, 2010

    Internet startup: Dotcom và tiệm sửa xe - phần 2: Mô phỏng "tiệm sửa xe"

    Tiếp tục theo bài viết Dotcom và tiệm sửa xe – phần 1 nói về những mối tương quan giữa Dotcom và tiệm sửa xe, lần này tôi thử nhìn dotcom dưới góc độ một … chủ tiệm sửa xe. Có thể tôi sẽ có một số cách tiếp cận rất là “ngớ ngẩn”.

    Khách hàng offline

    Như bài trước tôi đã liệt kê ra 3 vấn đề thường gặp của một dotcom là 1. Thiết thực – không thể thiếu 2. Chi phí/khách hàng 3. Thanh toán.


    1. Vấn đề thiết thực

    Đây quả là một vấn đề khó giải quyết và không có một mô hình chung cho các Internet startup. Trong bài trước tôi có tóm lại “nếu dotcom nào đó giải quyết được một vấn đề người dùng thực sự cần thì xác suất để phát triển và duy trì khách hàng sẽ cao hơn.” Làm sao để tìm được vấn đề người ta thực sự cần để giải quyết? Tôi cũng không biết. Thử nhìn lại nguồn gốc Facebook, Twitter, Youtube.

    Facebook bắt nguồn từ việc Mark Zuckerberg nhìn thấy nhu cầu sử dụng sổ lưu bút, giữ kết nối bạn bè từ thời học trung học nên online hóa thành Facebook.

    Twitter ra đời sau khi cofounder nói chuyện với bạn bè và thấy hầu như ai cũng muốn biết về tình hình tin tức hiện tại của bạn mình một cách đơn giản nhất. Giống như chúng ta lâu ngày gặp lại bạn sẽ hỏi: “Khỏe không mày? Có gì mới?”. Twitter là cách giải quyết hai câu hỏi trên: bạn twit thường xuyên người ta sẽ biết bạn đang “khỏe”. Nhìn twit của bạn sẽ biết bạn có gì mới.

    Youtube xuất hiện khi hai anh chàng nhân viên Paypal đi ăn tiệc về muốn có một chỗ để chia sẻ ngay những clip mới quay ở party.

    Ah, có vẻ tìm ra được một câu trả lời tạm chấp nhận được: phải tìm vấn đề ở offline, ở những nhu cầu của chính bản thân mình và cộng đồng mà mình đang sống. Ví dụ việc sửa xe chẳng hạn. Chuyện gì xảy ra nếu mai bạn ra đường và không thấy tiệm sửa xe nào?

    Vậy trong 3 trường hợp trên, tại sao Facebook và Youtube lại rất phổ biến ở VN mà Twitter thì vẫn èo uột. Xem thêm bài về Twitter tại VN của Ngọc Hiếu Ngoài lý do chính là vì Facebook mà tôi đồng ý với Hiếu thì còn lý do sâu xa đằng sau nữa. Biz Stone cofounder Twitter có nói “Twitter đặc biệt thích hợp với những người không có nhiều thời gian”. Ở VN chắc không có nhiều người thiếu thời gian như ở Mỹ.
    Tôi cũng đang rảnh rỗi nên mới viết cả bài dài trên Facebook đây :)

    Như vậy việc khá nhiều dotcom clone mô hình từ Mỹ không thành công ở VN có thể do họ không bắt đầu từ một nhu cầu thực sự ở VN, hợp với văn hóa VN, chứ không phải từ một nhu cầu ở Mỹ theo phong cách Mỹ.

    Bài tôi học: tạo một site đơn giản nhất có thể thể hiện được mong muốn của mình, sau đó phải tìm được ít nhất 10 người thực sự muốn sử dụng, họ cảm thấy rất cần site của tôi chứ không chỉ “tàm tạm đó, thấy cũng hay hay”. Đồng thời dịch vụ site cung cấp phải phù hợp với văn hóa, thói quen của người VN. Nếu đạt được điều đó tôi mới tiếp tục mở rộng, ngược lại tôi sẽ đổi sang hướng khác.

    2. Chi phí / khách hàng

    Đây là bài toán lớn mà dotcom nào cũng phải đối mặt. Như vậy học từ tiệm sửa xe bằng cách nào? Trong bài trước tôi thấy “Tiệm sửa xe chỉ mở rộng kinh doanh khi doanh thu từ khách hàng cao hơn chi phí, hoặc không quá chênh lệch so với chi phí”. Bằng cách này họ chỉ mở rộng khi họ có lời, hoặc nếu lỗ thì lỗ không đáng kể. Vấn đề của dotcom thường là “Tốc độ chi nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ thu” vì “kỳ vọng vào nguồn thu nhập từ lượng lớn khách hàng trong tương lai”.

    Vậy thử giải quyết bằng cách “giảm chi”, “tăng thu” và “kỳ vọng ít”: phát triển một Internet startup nhưng “mô phỏng” theo “mô hình hoạt động” của tiệm sửa xe. Với giả thuyết đầu vào tôi có một nhóm bạn bè cùng làm startup và một số vốn khiêm tốn 100-200 triệu/1-2 năm.

    Như vậy thay vì kỳ vọng vào lượng khách hàng lớn, và “thêm khách hàng là thêm chi phí” thì tôi sẽ làm ngược lại. Tôi chỉ phát triển một lượng khách hàng trung thành, không cần hàng chục hay hàng trăm ngàn user, mà chỉ cần 1000 hay 100 khách hàng trung thành mỗi ngày mà thôi. Và lượng khách hàng này tôi cũng sẽ tập trung xoay quanh một vị trí địa lý cụ thể - một điểm offline nào đó để dễ thu tiền về sau.

    Với marketing online tôi cũng rất tập trụng, chỉ nhắm vào vùng xoay quanh điểm offline và rộng hơn một chút. Ví dụ điểm offline của tôi ở Q.3 thì tôi chỉ vào “lăng xê” nó ở những diễn đàn Sài Gòn, hay những topic liên quan Q.3 mà thôi.

    3. Thanh toán

    Khi tôi đã có một lượng khách hàng trung thành nhất định, chừng 100 người/ngày tôi sẽ bắt đầu dịch vụ thu tiền. Để làm điều này, tôi mở một văn phòng offline nho nhỏ ở một vị trí mà khách hàng mục tiêu của website hay qua lại. Có thể là trong hẻm, hoặc trên lầu một chung cư nào đó để tối thiểu hóa chi phí. Điểm offline này sẽ là nơi để thu hút những khách hàng qua lại trong vòng bán kinh 300m. Và có hẳn một nhân viên lo “customer service” để tư vấn cho khách hàng offline trực tiếp thay vì online.

    Điểm offline này cũng là nơi giải quyết vấn đề thanh toán. Nếu khách hàng chấp nhận và bắt đầu có nguồn thu chứng tỏ mô hình đã hoạt động. Lúc này tôi tiếp tục bắt chước “mở rộng kinh doanh” theo cách của tiệm sửa xe. Tôi chỉ mở rộng quy mô khi một trong hai trường hợp sau xảy ra
    - Tôi đã có lời kha khá từ điểm offline đầu tiên.
    - Tôi đã có triển vọng doanh thu và có thể gọi vốn từ bên ngoài.

    Khi đã có một số vốn đầu tư lớn hơn thì có thể tiếp tục giải quyết vấn đề quy mô & thanh toán bằng những cách sau
    - Nhân rộng số điểm offline bằng cách mở chi nhánh hoặc nhượng quyền.
    - Dùng cách “cash on delivery”: cung cấp dịch vụ và thu tiền tận nhà.
    - Thu tiền qua SMS hay thẻ cào.
    - Thu tiền thông qua bưu điện: cách này ở TQ một số dotcom như Ctrip thực hiện, ở VN Vinabook đang sử dụng.

    Như vậy cách tiếp cận quy mô nhỏ & offline kiểu ”tiệm sửa xe” này sẽ có hai ưu điểm sau

    1. Chi phí thấp - phù hợp với đa số startup.
    2. Biết kết quả nhanh - nếu khoảng 1-2 năm mà vẫn không có triển vọng về doanh thu thì gần như dotcom này không có tiềm năng phát triển. Lúc này xoay sang hướng khác thì hơn thay vì cứ đi vào ngõ cụt.

    http://www.facebook.com/note.php?note_id=237222829226

    Các bài viết liên quan

    · Bài kỳ trước: Internet startup: Dotcom và tiệm sửa xe – phần 1
    · Bài tiếp theo: Internet startup: Dotcom và tiệm sửa xe – phần cuối: www.SuaXeonline.com

    Tuesday, January 05, 2010

    Internet startup: Dotcom và tiệm sửa xe

    Tôi có cảm hứng viết bài này nhân dịp… phải ngồi ở tiệm sửa xe hơn 30p. Hình như ở VN chuyện phải vào tiệm sửa xe là chuyện không thể không xảy ra với tần suất một hai tháng thì phải?

    Nếu xe quá tốt không bị trục trặc thì lâu lâu cũng bị cán đinh, nếu xe không cán đinh thì 3 tháng cũng phải thay nhớt một lần. Nếu không có xe gắn máy mà có xe hơi thì cũng phải vào trạm sửa xe hơi, dù xe gì và nế quá hoàn hảo cộng với may mắn không gặp vấn đề nào ở trên thì vẫn phải đem đi … rửa vì đường xá quá bụi bặm.



    Nhìn một vòng các đường phố ở SG, trừ những vùng quá trung tâm như ở Q.1 thì ở đâu cũng có tiệm sửa xe. Các quận gần trung tâm như Q.3 thì dành cho xe hơi nhiều hơn, các quận khác thì đâu cũng có tiệm sửa xe gắn máy. Các tiệm sửa xe mọc lên như nấm, và dường như ít khi nào phải đóng cửa. Có những tiệm phất lên rất nhanh, và nhiều tiệm tuy không phát triển mạnh vẫn sống vô tư qua ngày, tỉ lệ tồn tại phải đến hơn 90%. Ngược lại có rất nhiều dotcom cũng mọc lên như nấm, và rồi từ từ biến mất sau mưa, với tỉ lệ biến mất giống như tỉ lệ tồn tại của tiệm sửa xe. Có vẻ nghịch lý hay không? Khi mà Internet đang là một trào lưu của xã hội, và vấn đề xe cộ ít khi nào được thảo luận ở các nơi đông người tham gia.

    Cuối hẻm nhà tôi có một anh chàng chủ một tiệm sửa xe gắn máy. Đầu tiên anh ta thuê một mặt bằng nhỏ khoảng 4x8 ở mặt tiền đường để “khởi nghiệp” cách đây 2, 3 năm. Từ từ tiệm có nhiều khách, anh ta thuê thêm 5,6 người thợ, mở rộng kinh doanh bằng cách bán phụ tùng và linh kiện. Rồi tiệm ngày càng được nhiều người biết đến và có khách quen, khách lạ. Vì thế anh ta lại tiếp tục phát triển với việc thêm người, thuê lại một nhà xưởng ngay bên cạnh diện tích khoảng 5x18 để làm khu rửa xe và trưng bày xe gắn máy.

    Cũng với quy trình như trên, hầu hết các dotcom cũng bắt đầu từ một quy mô nhỏ, sau đó có thêm nhiều người truy cập, họ lại tiếp tục thêm người, phát triển sản phẩm, mở rộng dịch vụ. Chỉ khác một điều, khi tiệm sửa xe thêm người, thêm dịch vụ thì công việc kinh doanh của họ ngày càng bền vững hơn. Còn với rất nhiều dotcom, việc thêm người và mở rộng quy mô sản phẩm dịch vụ cũng chưa thể nói trước được điều gì, ngay cả với những tập đoàn lớn đã thành danh. Như vậy đâu là mâu thuẫn trong hiện tượng trên? Thử phân tích vấn đề dưới một vài góc độ offlline.

    1. Thiết thực – không thể thiếu


    Có lẽ hơn 80% dân số VN có sử dụng xe đạp, xe gắn máy, hoặc xe hơi. Và như tôi đã nói ở trên, ít ra 2-3 tháng mỗi người bắt buộc phải vào tiệm sửa xe một lần hoặc tần suất cao hơn nếu phải bơm xe. Trong khi đó có rất nhiều website Việt mà chẳng ai phải cần vào, và chẳng có lý do gì để “bắt buộc vào”.

    Có thể bạn sẽ nói, lập luận của tôi là không logic lắm, vì không vào website này thì sẽ vào website khác. Đồng ý. Nhưng thực tế là có khá nhiều website ra đời không thể kiếm được dù chỉ 5,10 khách hàng đến hàng ngày một cách có chủ ý, và họ cảm thấy website đó là thực sự cần thiết đối với họ, ít có sự thay thế khác.

    Trong khi đó một tiệm sửa xe bất kỳ sẽ dễ dàng có 5,10 khách đến hàng ngày vì lý do quan trọng nhất là “vị trí”. Bị bể bánh xe, bơm xe, rửa xe… ai cũng có xu hướng đến tiệm sửa xe gần nhất, nếu tiệm đó không quá tệ. Như vậy có thể nói một tiệm sửa xe trung bình có thể sống qua ngày nhờ vào lượng khách trong vòng bán kính từ 100-300m quanh đó.

    Tóm lại : nếu dotcom nào đó giải quyết được một vấn đề người dùng thực sự cần thì xác suất để phát triển và duy trì khách hàng sẽ cao hơn.

    2. Chi phí / khách hàng

    Như ở trên, với cùng một xu hướng phát triển, khi tiệm sửa xe có thêm khách hàng, điều đó cũng đồng nghĩa với việc có thêm lợi nhuận hoặc ít nhất cũng giảm trừ chi phí (do họ luôn bán linh kiện cao hơn giá vốn, phí sửa xe bù cho phí trả lương nhân viên/mặt bằng). Trong khi đó việc có thêm khách hàng ở hầu hết các công ty dotcom lại luôn đồng nghĩa với việc tăng chi phí tiếp thị, nhân sự, máy chủ …do chỉ có chi phí mà không có thu nhập, hoặc thu nhập rất ít so với chi phí. Dĩ nhiên là trừ một số ít các công ty game online đã có hệ thống kinh doanh rõ ràng và đang gặt hái lợi nhuận.

    Một số mạng xã hội tầm vóc khá lớn nay đã gần như mất dạng trên sàn đấu Internet là một ví dụ. Họ đổ ra nhiều tỉ đồng, thu hút hàng trăm ngàn user, sau đó không thể tiếp tục duy trì tốc độ đốt tiền để níu kéo khách hàng cũ hoặc thu hút khách hàng mới. Sẽ có vài nhiều nguyên nhân dẫn đến “cái chết của một dotcom”, nhưng một trong những lý do quan trọng và đến nhanh nhất là “hết tiền”. Với những dotcom có vốn đầu tư ban đầu càng lớn, càng thu hút được nhiều khách hàng thì lý do này càng trở nên quan trọng hơn. Nghịch lý quá nhỉ, càng có nhiều tiền thì lại càng sớm hết tiền. Dĩ nhiên điều này cũng có ngoại lệ, trừ một số dotcom do công ty mẹ có “quá nhiều tiền” thì không thể tính vào trường hợp trên.

    Tóm lại : sự khác biệt giữa việc “mạo hiểm” ở các công ty online và sự phát triển bền vững của những tiệm sửa xe có lẽ là do sự chênh lệch giữa thu và chi.

    Các dotcom có xu hướng kỳ vọng vào thu nhập sẽ đến từ lượng lớn khách hàng họ có trong tương lai nên thường chi với tốc độ nhanh hơn tốc độ thu rất nhiều. Trong khi với tiệm sửa xe sự phát triển này cân đối hơn, họ chỉ mở rộng kinh doanh khi thu nhập từ khách hàng cao hơn chi phí, hoặc không quá chênh lệch so với chi phí.

    3. Thanh toán

    Thật ra có nhiều website rất hữu ích, bản thân tôi cũng muốn sử dụng và nếu cần thì sẵn sàng thanh toán để tận hưởng tiện ích từ những website đó đem lại. Tuy nhiên tôi, hoặc những người bạn bè tôi thường gặp hai vấn đề chính: sự bất tiện hoặc thiếu tin cậy.

    Bất tiện là khi thanh toán phải qua nhiều bước đăng kí rắc rối, mất thời gian, hoặc khó hiểu… Tôi biết có nhiều người không sẵn sàng thanh toán bằng cách nhắn tin, vì nó không thân thiện với họ. Nói chung cả hai vấn đề này gộp lại là yếu tố không phù hợp văn hóa tiêu dùng của người VN.

    Thiếu tin cậy là khi người dùng không dám nhập mã số thẻ tín dụng của họ vào khi sử dụng dịch vụ. Điều này xảy ra ngay cả những website lớn và đã hoạt động khá lâu ở VN. Bản thân tôi cũng vậy, tôi chí dám dùng thẻ tín dụng ở những site uy tín của thế giới. Ở VN chắc tôi mới chỉ dùng thẻ ở mỗi Vietnam Airlines hay Jetstar.

    Ngay bản thân chúng tôi đã từng thực hiện một chương trình khuyến mãi nho nhỏ giảm giá phòng khách sạn trên Skydoor.net để test “mô hình kinh doanh”. Để giải quyết vấn đề thanh toán từ phía user, Skydoor phát phiếu khuyến mãi mà không thu tiền từ người dùng. Người dùng sẽ thanh toán trực tiếp với khách sạn. Khách sạn sau đó sẽ chuyển khoản tiền cho Skydoor. Hầu như không gặp vấn đề gì từ phía người dùng (vì đã “né” hẳn việc thanh toán), nhưng gặp khá nhiều rắc rối trong việc thu tiền từ khách sạn. Có khách hàng, có tiện ích nhưng muốn thu tiền cũng không dễ dàng gì.

    Trong khi đó với tiệm sửa xe bạn không gặp bất cứ vấn đề gì trong việc thanh toán. Tiền mặt dễ dàng, mọi lúc, mọi nơi. Có vẻ những công ty thành công ít nhất đã giải quyết được vấn đề thanh toán, bằng thẻ cào với B2C như hoặc thanh toán offline trực tiếp với B2B.

    http://www.facebook.com/note.php?note_id=233451769226
    -------

    Bài kỳ trước: 7 dự đoán về Internet Việt Nam 2010

    Bài kỳ tới - Thứ 5: Internet startup: Dotcom học tiệm sửa xe

    sleepingfool@gmail.com